Thiếu nữ Việt Nam

Thiếu nữ Việt Nam
quá dễ thương

Monday, October 29, 2012

Hoa Mười Giờ - Mai Thiên Vân


Click Vào Đây - Nhạc phẩm Hoa Mười Giờ/Ca sĩ Mai Thiên Vân

Saturday, October 27, 2012

Cúng Giỗ Bà Xả - Chị Bảy


Đám giỗ thứ ba của bà xả tôi nhằm ngày 6 tháng 11, 2012, đúng vào lúc tôi đang lang bạt giang hồ bên Âu Châu. Anh chị BS Thanh bồ tèo của tôi, rủ tôi đi Âu Châu từ tháng May 2012, tôi nhận lời và trả tiền Cruise Ship, tiền máy bay, tiền hotel xong hết. Đến tháng October 2012 thì tôi chợt nhớ đến ngày giỗ bà xả!

Năm rồi ngày giỗ của bà xả tôi cũng đúng vào lúc tôi đang lang bạt giang hồ ở ViệtNam. Nên tôi lên Đà Lạt cúng giỗ bà xả và tôi hết sức vui mừng vì được dịp cúng giỗ bà xả trong ngôi nhà mà bà xả đã lớn lên ngày xưa. Năm nay ngày giỗ bà xả, tôi không biết tôi sẽ đang ở thành phố nào bên Âu Châu, vì tàu Cruise Ship đưa tôi đi quanh các xứ bên Âu Châu.

Trước khi đi Âu Châu tôi đã lên Chùa Bảo Quang San Antonio để đốt nhang cúng bà xả. Tôi đốt nhang cầu xin Chư Phật tiếp tục gia hộ cho bà xả tu học ở Tây Phương Cực Lạc. Tôi cầu chúc bà xả tu học tinh tấn và thành đạt. Tôi cũng thông báo bà xả rằng ngày giỗ tôi đang kẹt ở Âu Châu với anh chị Thanh, và tôi có nhờ cô Út em gái tôi lo cúng giỗ.

Cô Út em gái tôi sẽ lên Chùa Bảo Quang San Antonio để cúng giỗ cho bà xả tôi. Cô Út đã liên lạc với Sư Cô Chùa Bảo Quang, và Sư Cô cho biết ngày 6 tháng 11, 2012 nhằm ngày Thứ Ba. Hằng tuần Chùa Bảo Quang có lễ vào ngày Chũ Nhật, nên cô Út hỏi tôi muốn cúng Chủ Nhật hay Thứ Ba.

Chủ Nhật hay Thứ Ba đối với tôi không có gì quan trọng. Vì tôi chọn ngày Tây để cúng giỗ cho bà xả, ngày Ta đối với con cháu tôi thì chúng nó chịu thua, không tài nào nhớ được! Hơn nữa lúc tôi còn làm việc Chùa, hầu như Phật Tử ai cũng chọn ngày Chũ Nhật để cúng giỗ cho có đông người, và tiện cho con cháu vì ngày Chũ Nhật con cháu được nghĩ. Thật ra với tôi, ngày giỗ là ngày kỹ niệm để tưởng nhớ, ngày giờ không cần chính xác. Nên tôi dặn cô Út cúng giỗ cho bà xả tôi ngày Chũ Nhật 4 tháng 11, 2012.

Cái may mắn cho tôi là ngày Chủ Nhật gần ngày Ta hơn. Bả xả tôi mất ngày 6 tháng 11, 2009 nhằm ngày 20 tháng 9 âm lịch. Ngày 20 tháng 9 âm lịch năm nay rơi đúng vào ngày 3 tháng 11, 2012. Trời! Ngày nầy cũng là ngày sinh nhật bà xả! Tôi cầu Chư Phật gia hộ cho tôi, nếu ngày ấy tôi đang ở thành phố nào bên Âu Châu mà có Chùa, tôi sẽ vào Chùa cúng cho bà xả. Vậy là năm nay cô Út cúng giỗ cho bà xả tôi vào ngày Chũ Nhật 4 tháng 11, 2012 tức ngày 21 tháng 9 âm lịch, cũng hay.
 
****************

Em, anh tin rằng chuyện cúng giỗ đối với em cũng như đối với anh, không quan trọng. Vì em là người Phật Tử thuần thành, lúc trước em thường nhắc nhở anh, giờ phút em lâm chung và ngày cúng thất tuần 49 ngày của em là quan trọng. Anh cũng vậy, anh sẽ dặn con đừng quan tâm đến cúng giổ anh. Vì với anh đó là ngày tưởng nhớ, nếu thuận tiện thì quay quần ăn uống để tưởng nhớ, nếu không thuận tiện thì thôi. Năm nay cô Út và Phật Tử Chùa Bảo Quang sẽ tưởng nhớ em ở San Antonio, còn anh sẽ tưởng nhớ em bên Âu Châu, nơi mà hai đứa mình đã có lần đi qua và em rất thích các lâu đài bên Anh, Pháp. Lúc hai đứa mình trên chiếc tàu du ngoạn to lớn trên sông Seine ban đêm ở Pháp, đèn trên các chiếc tàu du ngoạn đẹp lộng lẫy làm sáng rực con sông Seine và em vui quá sức, nhìn em anh thương làm sao.

Anh Thanh có ngưòi bạn thân đi du lịch mới chết ở Nga. Lúc anh còn ở San Diego sắp sửa về Texas để đi Âu Châu, anh Thanh gọi báo cho anh rằng người bạn của anh ở miền Bắc cũng MD về hưu như anh vừa chết. Hai ông bà bạn nầy đang đi du lịch bên Nga, sáng hôm ấy vừa lên xe bus để tour đưa đi tham quan thì ông chồng té nằm dài trên xe bus. Ông được đưa vô nhà thương thì ông chết. Ông nầy đã bị hai lần mỗ tim! Chính phủ Nga đòi mỗ xác ông khám nghiệm, bà vợ không đồng ý và nhờ toà đại sứ Mỹ can thiệp. Sau cùng xác ông khỏi bị mỗ khám nghiệm và xác ông được thiêu để đưa về Mỹ. Ông nầy đi du lịch mà chết nhẹ nhàng không làm phiền ai hết, anh mơ ước được như vậy. Nếu còn em mà anh chết như vậy thì tội nghiệp em quá. Bây giờ anh cu ky một mình, cho anh chết như vậy anh thích lắm. 

Anh chị Thanh lo mua bảo hiểm cho chuyến đi Âu Châu. Thấy người bạn thân mới chết bên Nga, anh chị Thanh lật đật đi mua bảo hiểm cho chuyến đi Âu Châu và rủ anh mua theo, anh đồng ý. Vì có bảo hiểm và nếu anh có theo em ở xứ nào đó thì con cháu khỏi lo. Bảo hiểm sẽ lo hết. Anh cũng dặn Thy rồi, đừng mang xác anh về Mỹ, mà thiêu xác anh tại chổ và có đem tro cốt về rải chung chổ với em thì tốt, nếu tốn kém và Thy muốn rải tro cốt anh ở xứ nào cũng được. Rải tro cốt anh ở Âu Châu, rồi anh nương nhờ làn gió anh bám vào các nàng tiên mắt xanh tóc bạch kim bên Âu Châu, chắc anh vui lắm! Em sẽ mừng cho anh nữa phải không? Vì em là Chư Thiên trên Tây Phương Cực Lạc rồi, em đang tu học, em đâu muốn anh theo em quấy rầy! tth
    

Wednesday, October 24, 2012

Cay Đắng Bờ Môi - Quang Lê


Click Vào Đây - Nhạc phẩm Cay Đắng Bờ Môi/Ca sĩ Quang Lê

Tuesday, October 23, 2012

Chuyện Ông Thiệu, Ông Khiêm ra đi - Nguyễn Tấn Phận


Anh HQ12 Trần Văn Ba San Antonio bồ tèo của tôi, forward bài viết của anh Nguyễn Tấn Phận, sĩ quan tuỳ viên của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Tôi dự định đọc phớt qua, nhưng càng đọc tôi càng sa lầy thích thú.

Có vài nhân vật trong bài nầy mà tôi có dịp quen biết gặp gỡ như Đ/Tá Đức, Đ/Tá Điền, Đ/Uý Mùi. Chắc không phải vì những nhân vật mà tôi quen biết làm cho tôi say sưa đọc, mà vì những dữ kiện lịch sử mà lâu nay tôi chỉ nghe, hôm nay tôi có dịp kiểm chứng.

Đọc bài nầy tôi thấy Ông Thiệu, Ông Khiêm và cả hai bà nữa, không tệ như miệng người đời. Lâu nay tôi nghe nhiều chuyện không tốt về hai ông, nhưng khi đọc bài nầy cũng như tôi đọc bài Khi Đồng Minh Tháo Chạy và nghe bài Tâm Tư Tổng Thống Thiệu của Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng, tôi trọng hai ông hơn. Trong lúc cực kỳ nguy hiểm, vì lúc bây giờ tôi được biết có nguồn tin có một tổ chức đang rình rập để giết hai ông, vậy mà khi ra đi hai ông vẫn chấp nhận nguy hiểm để thông báo cho đàn em chuẩn bị cùng đi. tth 

 
Sau đây là bài viết của anh Phận:


Những ngày cuối của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ở Sài Gòn

LTG: Mấy lúc gần đây báo chí Việt Nam, các đài phát thanh có chương trình Việt ngữ ở khắp nơi vẫn còn đề cập đến chuyến ra đi của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu do người ngoại cuộc kể. Chúng ta thấy có nhiều bức tranh vẽ khác nhau về chuyến đi này tùy theo người kể và cũng tùy ở người viết.

Để có bức tranh trung thực hơn, lần này diễn tiến chuyến đi do chính người trong cuộc kể lại; câu chuyện cũng đã được phối kiểm, đối chiếu qua nhiều tài liệu, hồi ký, tường thuật của những nhân vật Việt nam và Hoa Kỳ có mặt trong chuyến đi cũng như có trách nhiệm và liên hệ trực tiếp trong thời điểm lịch sử ấy.

Nhơn lúc nhàn rỗi, giở lại chồng giấy cũ úa màu, tình cờ tìm thấy bản tin của báo San Jose Mercury News (San Jose, California) nói về chuyến di tản của Tổng Thống Marcos gợi cho tôi nhớ lại chuyến đi của Tồng Thống Nguyễn Văn Thiệu cách đây hơn ba mươi năm.
Báo San Jose Mercury News đề ngày 26 tháng 2 năm 1986 đăng tin Tổng Thống Ferdinand Marcos cùng đoàn tùy tùng được Không Lực Hoa Kỳ di tản ra khỏi dinh Tổng Thống ở Manila một cách an toàn sau một thời gian có nhiều xáo trộn chính trị.

Nguyên văn bản tin viết như sau:

Marcos từ Guam đến Hawaii ngày 26 tháng 2 năm 1986. Sau 13 tiếng đồng hồ dừng lại ở đảo Guam, chiếc C141 của Không Lực Hoa Kỳ chở ông Marcos và đoàn tùy tùng đã rời căn cứ quân sự Anderson Air Base lúc 5:54 giờ PST trong cơn mưa to và đã đến Hawaii sau 8 giờ bay. Cùng tháp tùng Tổng Thống Marcos có vợ ông là bà Imelda; tướng Fabian Ver, một cộng sự viên đắc lực và cũng là tướng Tư Lệnh quân đội Phi và vợ ông ta. Tướng Gary Strasbourg, phụ tá trưởng phòng giao tế dân sự của căn cứ không quân, cũng cho biết thêm phái đoàn này có tất cả 89 người.

Hoa Kỳ đã cung cấp 4 trực thăng và 2 máy bay để đưa Marcos, vợ ông và nhừng người thân cận từ dinh Tổng Thống ở Manila đến căn cứ không Quân Clark Air Base, rồi từ đó đến Guam.
o0o

Việc can thiệp của Hoa Kỳ vào nội tình chánh trị Phi Luật Tân đã buộc nhà độc tài này rời bỏ đất nước, xảy ra 11 năm sau chuyến ra đi của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Nếu đem hoàn cảnh của Phi Luật Tân, một đất nước không có chiến tranh, không bị lệ thuộc nhiều vào Hoa Kỳ, so với Việt Nam Cộng Hòa vào năm 1975 thì việc di tản nhà lãnh đạo xứ này một lần nữa cho ta thêm cơ hội suy gẫm về số phận các nước nhỏ bé nằm trong quyền lợi của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ.

Miền Nam Việt Nam hoàn toàn bị khống chế nặng nề bởi Hoa Kỳ về mọi lãnh vực trong suốt thời gian dài chiến tranh. Bởi hậu quả của cuộc chiến mà tất cả chúng ta, nhân dân miền Nam Việt Nam, ai ai cũng đã chuốc lấy biết bao mất mát đau thương; nên việc ra đi của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trước hiểm họa đất nước suy vong đã làm dư luận búa rìu khắc khe kết án là điều không tránh khỏi.

Tính cho đến nay cũng đã hơn ba thập niên, chúng ta đã có đủ thời giờ để chiêm nghiệm về số phận đau thương của một đất nước nhỏ bé trong suốt mấy chặng đường dài tang thương của lịch sử dân tộc Việt. Tổ tiên, ông cha chúng ta đã từng sống nhục nhã dưới “một ngàn năm đô hộ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây.” Đồng bào trong nước nay phải oằn vai gánh nặng những hệ luỵ của một chủ thuyết ngoại lai trong hơn 30 năm qua; cho nên với những ngày dài lưu vong và những đau thương của đất nước, liệu đã đến lúc “ những gì của César trả lại cho César ” chưa, những gì của lịch sử đã trả lại cho lịch sử chưa. Và với thế hệ trẻ cũng như nhà cầm quyền Việt Nam đương thời qua đó sẽ rút tỉa được những bài học gì cho tương lai của dân tộc, đất nước.
*****
Sức ép
Tôi về trình diện Phủ Thủ tướng vào đầu tháng Tư năm 1975, chưa nhận nhiệm sở mới thì Đại tướng Trần Thiện Khiêm từ chức Thủ tướng Chánh phủ. Tôi được chuyển qua làm việc tại văn phòng Cố vấn Quân sự của Tổng thống Trần Văn Hương. Tân Tổng Thống Trần Văn Hương ngay sau khi nhậm chức đã ký Sắc lệnh bổ nhiệm Đại tướng Trần Thiện Khiêm làm Cố vấn Quân sự cho ông.

Nhiệm vụ của tôi là lo về an ninh cho Đại tướng và bà Trần Thiện Khiêm. Vào giai đoạn dầu sôi lửa bỏng này công việc rất là bề bộn. Phần lớn thời giờ tôi làm việc cho Đại tướng. Thỉnh thoảng bà Trần Thiện Khiêm chỉ thị tôi tháp tùng bà đi thăm viếng, cúng dường các chùa chiền ở vùng Thủ Đức và vài chùa ở ven đô Sài-gòn. Bà là người có đức tin tôn giáo mạnh mẽ và dường như bà hoàn toàn đặt số mệnh của mình vào sự phò trợ của Đấng Thế tôn. Có lẽ nhờ vậy mà làm dịu đi tánh năng động, tinh thần bà cũng bớt căng thẳng đối với sự lo âu của bà về tình hình lúc đó.

Nhưng chúng tôi cũng không thể ngờ, một vị Sư trụ trì một trong các ngôi chùa ở đây đã lợi dụng ảnh hưởng của bà để hoạt động tình báo cho Cộng sản.

Có sự khác biệt giữa bà và bà Nguyễn Văn Thiệu là bà biết nhiều về việc công của Đại tướng hơn là bà Nguyễn Văn Thiệu biết về việc công của Tổng thống Thiệu.

Trước kia khi còn làm việc tại Phủ Tổng thống, tôi luôn luôn giữ lòng quí mến đối với Tổng thống Phu nhân. Bà lúc nào cũng giữ nếp sống bình dị của người đàn bà phúc hậu, bao dung của sông nước vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đối với tôi, bà Thiệu là hình ảnh một người mẹ, một người vợ hiền đảm đang hơn là một vị Đệ nhất Phu nhân sống trong tột đỉnh của quyền thế và nhung lụa giàu sang. Bà là điển hình của mẫu người phụ nữ lớn lên trong gia đình được hấp thụ trọn vẹn một nền giáo dục Khổng Mạnh mà chúng ta thường thấy trong xã hội miền Nam trong thập niên 40.

Ở bà Thiệu luôn luôn tỏa ra sự trong sáng và vui tươi. Bà không bao giờ câu nệ về cách ứng xử của nhân viên thuộc cấp; bà luôn luôn lên tiếng hỏi thăm sức khỏe chúng tôi trước mỗi khi gặp mặt, không kịp để chúng tôi chào bà.

Điều đặc biệt là bà không bao giờ đề cập đến bất cứ chuyện gì có liên hệ đến việc làm của Tổng thống Thiệu với chúng tôi. Trong suốt thời gian làm việc tại đây, chỉ có một lần duy nhứt tôi nghe bà than phiền với Tổng thống Thiệu về một nhân vật có đầy quyền thế tại Phủ Tổng thống trong lúc tôi đang đứng bên cạnh.

Bà Trần Thiện Khiêm thì trái lại, năng động hơn. Về mặt giao tế, bà Khiêm là biểu tượng cho mẫu người đàn bà sang trọng với vẻ đẹp quí phái của một mệnh phụ phu nhân trong xã hội thượng lưu và quyền thế của Sài-gòn. Nếu chỉ quan sát bề ngoài, người đời nghĩ là bà có đời sống hưởng thụ vật chất với tiệc tùng linh đình như các bà trọc phú đương thời khác. Thực tế hoàn toàn khác hẳn. Trong gia đình, tất cả mọi người, anh chị em con cháu đều bị ràng buộc chặt chẽ vào khuôn khổ lễ giáo có truyền thống Á đông. Có thể nói bà kiểm soát tất cả mọi sinh hoạt của đại gia đình khá khắt khe; bà cũng rất khắt khe với chính bản thân bà và sống nép mình vào khuôn khổ đó. Có lẽ do ở bản tính hướng thiện và thủ cựu nên bà thường hay đi chùa và hay giúp đỡ người nghèo khó thế cô. Mọi nhân viên làm việc xung quanh đều được bà tận tình hỏi han giúp đỡ.

Điểm đặc biệt là, trong một chừng mực nào đó, bà có chia sẻ với Đại tướng về một số sự việc; cho nên thỉnh thoảng bà phát biểu công khai với chúng tôi và một số người tín cẩn trong gia đình, những cảm nghĩ của bà về vài vấn đề của thời cuộc. Mấy lúc sau này, đã có vài lần bà biểu lộ sự chống đối mạnh mẽ đối với Tổng thống Thiệu. Có một hôm bà bảo tôi theo bà vào dinh Độc Lập để yêu cầu Tổng thống Thiệu từ chức! Cũng may là chúng tôi chỉ được Tổng thống Phu nhân tiếp, nếu không thì số phận tôi không biết đã đi về đâu!

Ngoài tính năng động ra, trong vài trường hợp cấp thiết, bà là người chủ động. Do đó mà vào trung tuần tháng Tư, mấy ngày sau khi Thủ tướng từ chức, bà Trần Thiện Khiêm cho người đến nhà tìm tướng Charles Timmes. Bà cho tôi biết Tướng Timmes có viết cho bà lời nhắn trên một tấm thiệp nhỏ là xin đừng gọi điện thoại vì nhà không có điện thoại (?!).

Trung tướng hồi hưu Charles Timmes là sĩ quan chỉ huy toán cố vấn Mỹ đầu tiên có mặt ở Việt Nam từ năm 1961. Ông đã từng nhảy dù trong trận đổ bộ Normandie hồi đệ II thế chiến. Sau một thời gian ở Việt Nam ông được tuyển dụng và trở thành một viên chức cao cấp với nhiều thế lực của cơ quan tình báo Mỹ ở Sài Gòn. Tướng Timmes quen biết và tiếp cận với hầu hết các tướng lãnh kể cả Đại tướng Dương Văn Minh, Tướng Nguyễn Cao Kỳ... Nhiệm vụ của ông là “gần gũi và tìm hiểu tinh thần các tướng lãnh, nên ai cũng là bạn của ông ta” theo như nhận xét của Đại tướng Trần Thiện Khiêm cho tôi biết sau này.

Sau lần tiếp xúc đó, bà Trần Thiện Khiêm lại cho người đi mời Tướng Timmes đến nhà dùng= cơm tối vào ngày 17 tháng Tư. Khi Đại tướng đi làm về biết được chuyện này, tôi nhận thấy ông có vẻ không hài lòng. Trong bữa ăn hôm đó, từ phòng ăn gia đình gần nhà bếp tôi để ý thấy bà Khiêm có biểu lộ sự xúc động nhưng không có điều gì phải òa lên khóc như Frank Snepp, một chuyên viên phân tách tình báo cao cấp của cơ quan tình báo Hoa kỳ, đã diễn tả trong sách của ông ta, cuốn Decent Interval, trang 377.

Cũng theo Frank Snepp thì nhân cơ hội hiếm có này, Tướng Timmes muốn thăm dò Đại tướng Khiêm về việc từ chức của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.

Vào thời gian có quá nhiều xáo trộn chánh trị dồn dập của tháng Tư năm 1975, tin tức hàng đầu vẫn là câu hỏi bao giờ Tổng thống Thiệu từ chức. Những người quan tâm đến thời cuộc đều biết vào lúc đó Tòa Đại sứ và cơ quan tình báo Hoa Kỳ đang tìm mọi cách để loại Tổng thống Thiệu hầu dựng lên một khuôn mặt ôn hòa hơn. Đại tướng Dương Văn Minh là người hùng của cuộc Cách mạng 1 tháng 11, một nhân vật được nhiều cảm tình của một số đông dân chúng miền Nam, có chủ trương mềm dẻo đối với những đòi hỏi của Cộng sản, đang được tòa Đại sứ Mỹ đánh giá là một ứng cử viên của tình thế mới.
*****
Buổi trưa ngày 21 tháng Tư, Đại tướng Khiêm được Tổng thống Thiệu triệu tập vào dinh Độc Lập họp cùng với Phó Tổng thống Trần Văn Hương trong gần một giờ đồng hồ. Tôi theo Đại tướng vào dinh Độc Lập cho tới lúc ra về. Tôi biết đây là một buổi họp rất quan trọng nhưng hoàn toàn không đoán ra chuyện gì. Mãi khi về tới nhà, Đại tướng Khiêm bước xuống xe tại bậc tam cấp, ông không đi thẳng vào nhà mà dừng lại chờ tôi bước tới rồi nói với nét mặt vui hơn mọi khi: “Chiều nay mặc đồ đẹp, vào dinh Độc Lập nghe Tổng thống Thiệu đọc diễn văn từ chức!”.

Đó là vào khoảng gần 1 giờ trưa ngày 21 tháng Tư, tôi là người đầu tiên nhận được nguồn tin vô cùng quan trọng mà “cả thế giới” đang chờ đợi.

Mẫu tin quan trọng nầy sẽ có giá trị rất lớn trong sự thăng tiến nghế nghiệp truyền thông của một phóng viên quốc tế nếu họ nhận được tin đó trước vài tiếng đồng hồ. Một thoáng suy nghĩ giữa lợi lộc và chữ tín, nhưng cũng vì lương tâm chức nghiệp nên nguồn tin đã được giữ kín cho đến 7 giờ 30 tối hôm đó.

Sau này khi đọc các tài liệu và sách vở thì người đầu tiên biết được tin từ chức không phải là tôi. Tòa Đại sứ Mỹ đã biết trước tôi! Trong lúc Tổng thống Thiệu thông báo việc từ chức của ông cho Phó Tổng thống Trần Văn Hương và Đại tướng Trần Thiện Khiêm thì tại tòa Đại sứ Mỹ, hệ thống điện tử đã ghi âm rõ những gì Tổng thống Thiệu nói như Frank Snepp đã ghi trong sách của ông, trang 394. Chuyện nghe lén này dư luận cũng đặt ra nhiều giả thiết là người Mỹ bắt đầu nghe lén từ lúc nào và bằng cách nào, đặt máy ở đâu. Đó là câu hỏi không nằm trong bài viết này.

Tôi có mặt tại phòng Khánh Tiết trong dinh Độc Lập vào lúc Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đọc diễn văn từ chức trước một cử tọa rất đông đảo gồm các nhà lập pháp của hai viện Quốc hội với đầy đủ các viên chức Chánh phủ và các cơ quan truyền thông. Ngay hôm đó Tổng thống Thiệu tuyên bố bàn giao chức vụ Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa lại cho Phó Tổng thống Trần Văn Hương theo như Hiến Pháp đã qui định…
Ngay sau khi Tổng thống Thiệu từ chức, Ngoại trưởng Kissinger liền gởi cho ông Graham Martin, Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài-gòn một điện văn.

Tổng Thống VNCH Nguyễn văn Thiệu,phải, Phó TT Nguyễn Cao Kỳ, trái,
trong một cuộc họp báo tại Dinh Độc Lập năm 1970. Photo Time Life magazine

Tiến sĩ Kissinger ỵêu cầu ông đại sứ chuyển lời bày tỏ lòng “kính trọng” của ông đối với vị cựu Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa và đề nghị muốn giúp Tổng thống Thiệu rời khỏi Việt Nam. (Decent Interval trang 396 )
Cũng trong chiều hướng đó, sáng sớm hôm sau là ngày 22 tháng Tư, tướng Charles Timmes vội vã đến tư dinh Đại tướng

Khiêm xin được tiếp kiến. Đại tướng đã tiếp ông hơn nửa tiếng đồng hồ. Rồi ngay chiều hôm đó Đại tướng Khiêm vào dinh Độc Lập gặp Tổng thống Thiệu.
Chúng ta khó biết Đại tướng Khiêm nói gì với cựu Tổng thống Thiệu nhưng sẽ không loại bỏ những gì Tướng Timmes muốn đề nghị lên ông Thiệu là nên ra đi khỏi nước.
Sau này ở hải ngoại Đại tướng Trần Thiện Khiêm có cho tôi biết là ngay sau khi Tổng thống Thiệu từ chức “cụ Hương muốn Tổng thống Thiệu và dượng Tư” đi đường biển qua Singapore. Tiết lộ này trùng hợp với việc Thủ tướng Lý Quang Diệu đã yêu cầu ông Hoàng Đức Nhã qua Singapore gặp ông để thông báo là giới chức Mỹ muốn Tổng thống Thiệu phải đi lưu vong ở Singapore hoặc một thủ đô nào của các quốc gia vùng Đông Nam Á.
(Decent Interval trang 383)

Tuy đã từ chức song cựu Tổng thống Thiệu vẫn còn ở trong dinh Độc Lập và còn áp đặt nhiều ảnh hưởng khiến cho Tân Tổng thống Trần Văn Hương gặp nhiều khó khăn trong đường lối thương nghị với Cộng sản theo như Oliver Todd ghi lại trong cuốn sách Cruel April trang 327.

Để thấy ảnh hưởng của cựu Tổng thống Thiệu đối với Tân Tổng thống Trần Văn Hượng, tôi ghi ra đây giờ giấc làm việc của hai vị cựu và tân Tổng thống với sự có mặt của Đại tướng Khiêm. Đây là ghi nhận từ phía văn phòng Đại tướng Khiêm. Phần thời gian làm việc riêng giữa cựu Tổng thống Thiệu với Tổng thống Hương thì có lẽ các quí vị sĩ quan tùy viên của cựu Tổng thống Thiệu xác nhận và bổ túc thêm. Các vị ấy là Chánh tùy viên Đại tá Nguyễn Văn Đức, các sĩ quan tùy viên: Đại ủy Nguyễn Xuân Tám, Hải quân Đại úy Trần Anh Tuấn.

Chương trình này tôi có ghi vào sổ tay như sau:

· Ngày 22 tháng Tư, Đại tướng Khiêm:

16:00 giờ vào dinh Độc Lập gặp cựu Tổng thống Thiệu.

18:00 giờ qua cánh phải, tại văn phòng của Tổng Thống, gặp Tổng thống Hương.

· Ngày 23 tháng Tư, Đại tướng Khiêm:

16:30 giờ vào dinh Độc Lập gặp Tổng thống Hương khoảng 20 phút rồi qua cánh trái

dinh Độc Lập gặp cựu Tổng thống Thiệu. Sau đó Tổng thống Hương, cựu Tổng thống Thiệu và Đại tướng họp cho đến 20:00 giờ.

· Ngày 24 tháng Tư, Đại tướng Khiêm:

Lúc 15:00 giờ vào dinh Độc Lập gặp cựu Tổng thống Thiệu, sau đó qua văn phòng Tổng thống Hương, rồi cùng họp với cựu Tổng thống Thiệu và Tổng thống Hương.
*****
Ngày 25 tháng Tư, Đại tướng Khiêm Lúc: 09:00 giờ sáng vào dinh gặp Tổng thống Hương, cựu Tổng thống Thiệu và Đại sứ Pháp Jean-Marie Mérillon của nước Pháp.

Ngoài ra theo Frank Sneep, Đại tướng Dương Văn Minh ( lúc nầy Đại Tướng Minh chưa có vai trò gì trong chánh quyền ) cũng đã góp một phần lớn vào sức ép buộc cựu Tổng thống Thiệu phải rời khỏi nước. Tướng Minh cho rằng sự có mặt của ông Thiệu làm cản trở tiến trình hòa bình do ông chủ trương nên ông yêu cầu tướng Timmes phải bằng mọi cách thúc bách cựu Tổng thống Thiệu sớm ra đi. Khi biết được điều này, Đại sứ Martin rất lâý làm phấn khởi; trước hết ông không muốn bị mang tai tiếng về việc ra đi của ông Thiệu, ông muốn cho dư luận tin rằng đó là sức ép từ các thế lực địa phương – không phải từ phía tòa Đại sứ Mỹ. ( Decent Interval, trang 434)

Một tiết lộ khác của Oliver Todd, trong cuốn Cruel April, là cuối cùng Tổng thống Trần Văn Hương phải quyết định triệu hồi Đại sứ Martin vào dinh Độc Lập. Cụ Hương nêu ra nhiều lý do và nhấn mạnh với ông Martin là nếu còn có sự hiện diện của ông Thiệu ở Sài Gòn thì chánh quyền do ông lãnh đạo khó tiến hành các cuộc hòa đàm với phía bên kia. Tổng Thống Hương yêu cầu nước Mỹ nhận ông Thiệu sang sống lưu vong. Ông Đại sứ hứa là chánh quyền Mỹ sẵn sàng chấp nhận ông Thiệu sang sinh sống ở Hoa Kỳ.

Nay nhìn lại các hoạt động của tướng Timmes và dựa vào các văn kiện của các Bộ Ngoại giao và Bộ Tư pháp Hoa Kỳ, chúng ta thấy rõ ràng đã có áp lực mạnh mẽ từ Hoa Thịnh Đốn buộc ông Thiệu phải đi ra khỏi nước theo kế hoạch của họ ngay sau khi ông từ chức.

Văn kiện đầu tiên được gởi đi từ Hoa Thinh Đốn, đúng 12 tiếng đồng hồ sau khi Tổng thống Thiệu từ chức, là:

Buổi sáng ngày 22 tháng 4, năm 1975, thừa lệnh Tổng thống Hiệp Chủng quốc Hoa Kỳ, Bộ Tư pháp của chánh phủ này đã gởi điện văn ủy quyền cho tòa Đại sứ Mỹ tại Việt Nam cấp một số parole documents (giấy tạm cư) cho phái đoàn cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. (Cruel April, trang 327)

Giấy tạm cư này có phát cho chúng tôi; ngày phái đoàn rời Việt Nam là ngày 25 tháng 4, 1975 mà trên parole documents do tòa Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn cấp, lại đề ngày April 22, 1975.
Hình chụp lại từ đoạn phim tài liệu của đài ina/Pháp cho thấy TT Nguyễn Văn Thiệu, đi đầu,
Tuỳ viên Nguyễn Tấn Phận, phải, và ông Giám Đốc Nghi Lễ Phủ Tổng Thống, trái, tại cầu thang chính Dinh Độc Lập. Photo INA,

* * * *

Chuẩn bị ra đi
Tại tư dinh Đại tướng Trần Thiện Khiêm. Buổi sáng ngày 25 tháng Tư, tôi thức dậy trễ vì đêm rồi Đại úy Mùi, sĩ quan tùy viên của Đại tướng và tôi xem tivi, nói chuyện rất khuya. Ăn mặc vội vàng rồi như thường lệ tôi đến phòng trực của Sĩ quan Tùy viên. Đây là một phòng nhỏ, chỉ kê có một bàn viết ngay cửa ra vào tư dinh của Đại tướng. Trung tá Đặng Văn Châu là Chánh Văn phòng đã có mặt tại đó. Ông vừa được chỉ định thay thế Đại tá Nguyễn Trọng Hồng. Tôi quan sát thấy ông có vẻ bận rộn hơn những ngày thường. Lúc này vào khoảng 8 giờ rưởi. Bên ngoài trời có nắng đẹp. Tiếng người hối thúc nhau và tiếng ồn ào của đủ loại xe cộ chạy trên đường Võ Tánh trước cửa tư dinh Đại tướng trong thời gian gần đây càng dồn dập, hối thúc hơn. Từ khi tiễn bà Trần Thiện Khiêm đi Đài Bắc, sau giờ làm việc tôi không về nhà bên vợ như thường lệ, theo lời dặn của bà là phải dành ưu tiên lo an ninh cho Đại tướng; do đó không lúc nào tôi rời ông trong bất cứ hoàn cảnh nào, lúc đi ra ngoài cũng như lúc ở nhà. Ngay khi ngủ ban đêm, để bảo đảm an ninh tối đa cho Đại tướng, Đại úy Mùi và tôi quyết định trải chiếu ngủ tại phòng ăn, ngay dưới chân cầu thang dẫn lên phòng ngủ của Đại tướng ở trên lầu. Phòng làm việc của Đại tướng cũng ở trên đó, đặt cạnh phòng ngủ. Trung tá Châu cho biết là chỉ thị của Đại tướng muốn tôi ra ngân hàng quốc gia đổi 3 triệu đồng bạc Việt Nam để lấy tiền Mỹ kim bằng bạc mặt (cash). Trung tá Châu còn lo xa và muốn cho việc đổi tiền được mau lẹ nên đã gọi điện thoại đến các cơ quan liên hệ trước vì tôi là người lạ mới về làm việc tại tư dinh chỉ mới hơn ba tuần lễ. Tài xế đưa tôi đến thẳng văn phòng ông Bộ trưởng Phủ Thủ tướng. Người đầu tiên tôi gặp là ông Nguyễn văn Thân, bí thư của ông Bộ trưởng. Anh Thân hiện định cư ở thành phố San Jose , miền bắc California . Cũng may anh Thân và tôi đã quen nhau từ trước. Anh là người vui tánh, lanh lẹ và cởi mở. Tôi cho anh biết ngay là Đại tướng Cố vấn cần mỹ kim, bằng tiền mặt, để dùng cho công tác đặc biệt. Anh bảo tôi chờ để anh trình lên ông Bộ trưởng. Anh và tôi ngồi nói chuyện thời sự khoảng 20 phút thì văn thư làm xong. Tôi cám ơn anh Thân rồi xuống phòng phía dưới lầu gặp ông Phạm Văn Phàng, Chánh sự vụ Sở Công văn, để lấy văn thư đến Bộ Tài chánh. Trong văn thư ông Bộ trưởng Phủ Thủ tướng Nguyễn Long Châu gởi ông Tổng Trưởng Tài chánh yêu cầu thỏa mãn nhu cầu của Đại Tướng. Bản văn nầy mang số 899 P Th T/HCPC/5, hiện tôi còn giữ. Lúc đó vào khoảng 10 giờ hơn. Tôi vội vã rời Phủ Thủ tướng đến thẳng Bộ Tài chánh. Khi đến Bộ Tài chánh thì được giới chức tại đó cho biết là ông Tổng trưởng đang họp và buổi họp sẽ kéo dài lâu lắm. Tôi hơi thắc mắc về câu nói “buổi họp sẽ kéo dài lâu lắm” nhưng tôi vẫn cứ chờ. Sau đó tôi có nhắc đây là yêu cầu của Đại tướng và có ai có thẩm quyền ở đây không ngoài ông Tổng trưởng. Họ trả lời không dứt khoát và yêu cầu tôi cứ chờ. Chờ mãi đến giờ trưa vì đói nên tôi cùng tài xế và anh hiệu thính viên truyền tin ra chợ cũ, đến tiệm Thanh Xuân ăn hủ tiếu. Tôi không ngờ đó là bữa ăn cuối cùng mà mãi cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ hương vị hủ tiếu Thanh Xuân của khu chợ cũ năm nào. Sau khi ăn xong, chúng tôi trở lại Bộ Tài chánh. Ông Tổng trưởng vẫn còn đang họp! Lúc đó thì đã xế trưa. Tổng trưởng Tài chánh lúc bấy giờ là ông Lê Quang Trường thuộc Nội các Nguyễn Bá Cẩn. Tôi đành phải kiên nhẫn chờ mặc dầu tôi nghi ngờ về việc “họp” của ông Tổng trưởng. Tôi có ý nghĩ không tốt về vị Tổng trưởng này lúc đó. Về sau, được biết sau tháng 4/1975, Tổng trưởng Lê Quang Trường cũng bị bắt và bị đưa đi “ học tập cải tạo ” như bao người khác. Tôi hối hận vì đã nghi oan cho ông. Trong lúc tôi vắng mặt tại tư dinh, Đại tướng Trần Thiện Khiêm đã tiếp tướng Timmes lúc 11 giờ 50 trưa và sau đó tiếp ông Polgar vào lúc 1 giờ. Ông Thomas Polgar là Trưởng chi nhánh tình báo Hoa Kỳ tại Sài-gòn. Ông chỉ huy và điều hành một cơ quan tình báo rất hùng hậu gồm hàng ngàn nhân viên. Ngoài hoạt động điều nghiên, thu thập tin tức địch, họ còn có mặt ở mọi nơi, len lỏi vào mọi ngành, mọi cấp của chánh quyền Việt Nam Cộng Hòa. Polgar là một nhân vật có ảnh hưởng rất lớn trong mọi sinh hoạt chánh trị và quân sự ở Sài Gòn. Tôi vừa về tới thì thấy ông này vừa ra về.

Lúc đang chờ tại văn phòng ông Tổng trưởng Tài chánh thì anh tài xế bất chợt xô cửa bước vào, cho biết lịnh của Đại tướng là phải trở về nhà gấp.

Trước khi trở về bộ Tổng Tham mưu, tôi cho xe chạy vòng qua chợ Trương Minh Giảng, về nhà đứa em thứ Tám của tôi ở trong một đường hẻm nhỏ. Má tôi cũng ở đó. Tôi không gặp được ai ngoài anh Chứ, người anh thứ Tư của tôi. Tôi cho anh biết một số sự việc và báo là tôi có thể sẽ đi một mình thôi, không đem ai theo được. Các anh em còn lại chỉ còn có con đường duy nhất là hãy xuống phi trường Trà Nóc ở Cần Thơ nhờ Hưng lo liệu. Hưng là em trai kế của tôi, đại úy phi công lái Cessna. Tôi căn dặn thêm là nói với Hưng, chỉ có con đường cuối cùng là lái phi cơ thẳng qua phi trường Utapao, Thái Lan.

Trên đường về tư dinh Đại tướng Khiêm, theo thói quen, tài xế thường chạy xe qua đường Trương Quốc Dung – con đường dẫn vào cổng số 5 Bộ Tổng Tham mưu là con đường nhỏ nối liền đại lộ Cách Mạng 1 tháng 11 và đường Võ Tánh. Khi chạy ngang qua nhà anh Nguyễn Thanh Vân thì tôi thấy anh đang đứng ngay trước cổng nhà có vẻ như trông chờ ai. Tôi cho xe dừng lại và cũng vì chỗ thân tình, tôi khuyên là “các anh em” có phương tiện gì thì cứ đi đi. Các anh em mà tôi nhắn ở đây là những bạn học cũ ở trường Petrus Ký trước kia, một số là sĩ quan Hải quân và một số bạn dân sự khác gồm có anh Trần Khánh Vân. Lúc đó Vân đang là Tổng cục Trưởng Tổng cục Gia cư. Tôi không biết là vào lúc đó, trong số họ, nhiều người đã đi rồi! Mặc dầu không nói ra nhưng khi Đại tướng Khiêm muốn tôi đích thân đi đổi tiền cũng là một cách gián tiếp cho tôi biết là phải “ sẵn sàng để đi. ” Có một việc bất ngờ xảy ra trước đó hai hôm cũng cho tôi thấy Đại tướng có ngầm ý cho tôi biết là “ phải chuẩn bị.” Thông thường Đại Tướng Khiêm ăn trưa xong là đi thẳng lên lầu nghỉ trưa, ít khi đi dạo phía sau vườn. Trưa ngày 23 tháng Tư, vừa ăn xong, Đại tướng không lên lầu mà lại đi ra phía sau nhà. Tôi đi theo sau ông. Đại tướng vừa bước ra khỏi cửa sau thì bỗng có chiếc xe Mazda từ ngoài chạy vào. Tài xế thấy ông, giật mình dừng xe lại. Liền sau đó vợ tôi bước xuống. Cô nầy vừa khoanh tay khom mình chưa kịp thưa thì ông đã nạt lớn: “ Sao không đi đi, còn ở đây làm gì! ” Nhà tôi sợ quá, vội vàng leo lên xe. Trong khi xe đang quay đầu chưa kịp chạy thì Đại tướng lại la tiếp: “ Đi liền đi, còn chờ gì nữa!” Bà bà xã tôi và tôi chưa kịp nói với nhau lời nào. Ngày hôm sau, gia đình bên vợ tôi lên máy bay Air Việt Nam đi Pháp. Ba vợ tôi là ông Đinh Văn Re còn ở lại nên tôi mới có dịp gọi điện thoại cho ông vào phút chót, lúc Đại tướng Khiêm sắp sửa lên đường.

Khi tôi về đến tư dinh thì thấy mọi người đều lăng xăng trong bầu không khí khác thường. Thiếu tá Đinh Sơn Thông là em bà Khiêm và cũng là Bí thư của Đại tướng nói với tôi là hãy đi nghỉ ngơi rồi ăn mặc chỉnh tề để chuẩn bị tiếp khách theo lịnh của thượng cấp. Đến đây thì tôi thấy chắc chắn hôm nay là ngày lên đường, nhưng cá nhân tôi thì vẫn chưa có quyết định.

Nghỉ ngơi trong chốc lát rồi tắm rửa thay thường phục xong, tôi chưa vội khoác áo ngoài. Theo thông lệ tôi đi một vòng quanh nhà để kiểm soát các quân nhân canh gát và toán cận vệ rồi trở vào bằng cửa sau.

Trước hết phải đi qua nhà bếp. Các anh làm bếp đang bận rộn nấu ăn, khuôn mặt người nào cũng có vẻ ưu tư, lo lắng; chốc chốc người nọ nhìn người kia như để gạ hỏi điều gì. Họ thấy tôi ăn mặc khác thường nên càng xầm xì nhiều hơn vì trong suốt thời gian làm việc tại tư dinh Đại tướng tôi chỉ mặc quân phục. Đặc biệt hôm nay tôi lại thay quần áo thường phục. Để tránh sự tò mò, tôi nói giã lã vài câu chuyện rồi bước lên nhà trên.
*****
Nhìn qua phòng khách tôi thấy bàn ăn đang đặt tại đó. Tôi nghĩ bụng, đáng lẽ ra phải dọn tiệc tại phòng ăn, ai lại dọn lên phòng khách. Phòng ăn rộng rãi và khang trang hơn. Dĩ nhiên đây là dấu hiệu bất thường. Rồi tôi đi về phía trước nhà.

Đến phòng trực của sĩ quan tùy viên, tôi thấy Thiếu tá Lưu là sĩ quan tùy viên lên ca, thay thế Đại úy Mùi làm việc ngày hôm trước. Anh đang xem xét giấy tờ và bận rộn lo giải quyết công việc thường nhựt một cách bình thản coi như không có chuyện gì xảy ra. Hình ảnh anh Lưu để lại trong tôi một ấn tượng thật tốt đẹp. Sự tận tụy và tinh thần phục vụ của anh trong giây phút này thật là đáng quí. Tôi tin anh đã biết rõ mọi chuyện vì anh là người có họ hàng với gia đình Đại tướng.

Một lúc sau ông Trần Thiện Phương là anh ruột của Đại tướng đến. Ông đi thẳng lên lầu gặp Đại tướng trong vòng vài phút rồi vội vã ra về. Sau đó Thiếu tá Đinh Sơn Tuyền là em bà Đại tướng cũng tới. Tôi đến chào ông Tuyền đang ngồi tại hành lang trước nhà với vẻ mặt trầm tư. Tôi trao số tiền 3 triệu đồng bạc lại cho ông. Sau đó Thiếu tá Tuyền chỉ vào thưa chuyện với Đại tướng trong vòng vài phút rồi cũng vội vã ra về.

Gần xế thì có lịnh từ Sở An ninh hoàn trả Đại úy Vân và toán cận vệ của anh về phủ Thủ tướng. Toán quân nhân gác nhà cũng được trả về Liên đoàn An ninh Danh dự. Kể từ giờ phút này nhà Đại tướng Khiêm coi như bỏ ngõ. Tôi bắt đầu lo lắng.

Lúc này cũng đã hơn 6 giờ chiều.

Vì thấy tôi có vẻ đâm chiêu Trung tá Châu cho biết là chiều nay Đại tướng muốn chánh thức mời Tổng thống Thiệu, vài nhân vật trong nội các và ngoại giao đoàn đến dự tiệc để ông chào giã biệt vì từ ngày từ chức Thủ tướng đến nay chưa có dịp tổ chức. Tôi biết đó chỉ là lối ngụy trang cho chuyến đi. Tôi chỉ thắc mắc tại sao lại có Tổng thống Thiệu, tôi nghĩ Tổng thống Thiệu đã có kế hoạch ra đi riêng của ông.

Trời vừa chập choạng tối thì các món ăn cũng được dọn lên. Hôm đó có chả giò, nem nướng; mấy dĩa chả giò cuốn nhỏ, chiên giòn được bày ra trông rất đẹp mắt. Cách trình bày cũng làm cho thực khách cảm thấy món ăn ngon miệng hơn, nhưng lúc này lòng dạ trăm thứ ngổn ngang thì bụng nào thấy đói.
Hàng trước từ trái, TT Nguyễn Văn Thiệu, TT Hoa Kỳ Lyndon B Johnson, Phó TT Nguyễn Cao Kỳ
cùng chào cờ tại căn cứ không quân Mỹ tại đảo GUAM. Life magazine

Gói quà đặc biệt Tại tòa Đại Sứ Hoa Kỳ...
Tòa Đại sứ Mỹ nằm trên đường Thống Nhất, cách dinh Độc Lập vài khoảng đường, “từ đó có thể nhìn thấy các sinh hoạt của dinh Độc Lập.” “ Vào lúc 5 giờ Thomas Polgar gọi chúng tôi bốn người gồm có tướng Timmes, anh Joe Kingsley và một nhân viên khác rồi hỏi chúng tôi là các ông có rành đường phố Sài-Gòn ban đêm không. Chúng tôi đều gật đầu. Thế thì tốt, Polgar tiếp, tôi muốn các ông giúp tôi đưa Thiệu và cựu Thủ tướng Khiêm đi Đài Loan tối nay…”
Đó là theo lời kể của ông Frank Snepp trong cuốn Decent Interval, trang 434.
* * * *
Cũng khoảng thời gian trên tại dinh Độc Lập… Cựu Tổng thống Thiệu đang nghỉ ngơi ở phòng đọc sách tại lầu 3 bên cánh trái (từ trong dinh nhìn ra). Ông gọi Trung tá Tôn Thất Ái Chiêu, Sĩ quan Tùy viên thân cận nhất của ông, vào để chỉ thị mấy việc cần thiết và bảo ông Chiêu đem bộ quần áo của ông về nhà riêng trong Bộ Tổng Tham mưu. Nhà này cũng nằm chung dãy nhà với Đại tướng Khiêm. Sau đó Tổng thống Thiệu gọi các vị sĩ quan thân cận gồm có: Đại tá Võ Văn Cầm, Chánh Văn phòng; Đại tá Nguyễn Văn Đức, Chánh Tùy viên; Đại tá Nhan Văn Thiệt, Chỉ huy trưởng Cảnh sát Quốc gia Vùng 4; Đại tá Trần Thanh Điền, Trưởng khối Cận vệ. Tổng thống Thiệu ra lịnh, “ tất cả mấy chú phải thay thường phục, có mặt tại dinh lúc 7 giờ. Mỗi chú chỉ được mang theo một túi xách tay nhỏ, tuyệt đối giữ bí mật, không được thông báo cho gia đình.” Tổng thống Thiệu vừa dứt lời thì Đại tá Điền thưa, “ Xin Tổng thống cho (Trung tá) Sáng và (Trung tá) Th. đi theo.” Thấy ông Thiệu không trả lời, ông Điền lặp lại thì cũng vừa lúc đó Đại tá Đức khều nhẹ. Điền hiểu ý. Sau nâỳ được biết Tổng thống Thiệu đã có chỉ thị choTrung tá Sáng ở lại với công tác đặc biệt, còn Trung tá Thứ thì ở lại tiếp tục lo an ninh cho Tổng thống Trần Văn Hương. Riêng Bác sĩ Minh lúc đó không có mặt trong dinh, Trung tá Chiêu phải gọi vào. Thói thường lịnh vua truyền là như vậy nhưng lệ làng thì khác. Mấy hôm nay tất cả các vị quan này, vì bị đặt trong tình trạng báo động nên lúc nào cũng túc trực tại dinh, khi nghe được lịnh trên, ai ai cũng đều vội vã chạy về nhà hoặc gom góp chút ít đồ đạc, giấy tờ cá nhân, và dĩ nhiên là có thông báo cho vợ con, rồi trở lại dinh Độc lập ngay.
Tại tư dinh đại tướng Khiêm…
Quang cảnh có vẻ cần phải quan tâm hơn. Trong nhà bếp, Thượng sĩ Trị, Thượng sĩ Xê đang khóc thút thít. Anh Tín, một tay đầu bếp nấu ăn rất giỏi đang buồn rầu. Xin nói thêm, các chị em bà Trần Thiện Khiêm đều là những giai nhân hiền thục, đồng thời là nhũng người vợ đảm đang, lại thêm có khoa nấu ăn rất khéo. Có một lần tôi nghe một vị công chức cao cấp kể rằng: “ người ta đồn gia đình bà Khiêm nấu các món ăn ngon nổi tiếng ở Sài Gòn.”

Trung úy Hồng uống rượu nhiều, đang say ngà ngà. Anh Hồng cứ theo chất vấn Thiếu tá Thông= là “sếp” đi đâu. Các anh thường gọi Đại tướng Khiêm là “sếp” với cả tấm lòng kính mến vì họ là những người, phần lớn cuộc đời, đã gắn bó với gia đình này. Dĩ nhiên là anh và các nhân viên phục dịch tại nhà đều cảm nhận việc Đại tướng sắp ra đi nhưng muốn được chánh thức xác nhận. Cuối cùng Thiếu tá Thông phải nói thật là “chúng tôi đưa Thủ tướng ra khỏi nước!”
*****
Nghe đến đây, tôi đâm ra lo sợ cho sự an toàn của Đại tướng nhiều hơn vì dưới khía cạnh an ninh tôi hoàn toàn không tin tưởng bất cứ ai. Tôi để ý từ lâu hai ông Châu và Thông cũng không có chuẩn bị cho sự an toàn của cá nhân hai ông thì làm sao mà lo cho Đại tướng được. Hai vị này từ lâu đã trở thành mẫu người công chức – đúng hơn là những viên chức ngoại giao. Điều đó làm cho tôi lo ngại thêm. Nhưng các diển tiến sau đó cho biết những gì tôi nhận xét là sai lầm.

Kiểm lại các sự việc đã diễn ra, tôi nghĩ là tôi đã được chọn cùng đi theo phái đoàn. Lúc bà Trần Thiện Khiêm còn ở nhà, bà cũng có nói xa gần với tôi như vậy. Nhưng lúc đó cũng không có gì là chắc chắn vì tôi thấy trong nhà còn có Thiếu tá Đinh Sơn Tuyền là ruột thịt trong nhà, là người mà gia đình cần hơn tôi; vì vậy mà tôi chưa chuẩn bị tinh thần cho đến khi ông Tuyền đến chào từ giã Đại tướng thì thật sự mới biết là= tôi có tên trong danh sách trình lên Tổng thống Trần Văn Hương.

Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, thứ sáu từ phải, và Hội đồng chính phủ của ông năm 1965.Time Life magazine

Nhưng riêng cá nhân tôi thì cũng chưa có quyết định dứt khoát, đi cũng là điều may mà ở lại cũng không phải là điều gở; nếu đi thì tôi còn gần vợ con mà ở lại thì cũng là cơ hội cho tôi được lo cho bà Ngoại và Má tôi cùng nhiều anh em đang có hoàn cảnh sống khó khăn, họ cần sự có mặt của tôi. (Bây giờ nghĩ lại, mới biết là mình còn quá ngây thơ).

Khi nghe Thiếu tá Thông nói như vậy thì tôi đi vội về phòng, kiểm soát lại một số giấy tờ. Những gì không cần thiết tôi đem ra sân sau đốt cùng với tập nhựt ký. Lúc đó tôi nghĩ việc tiêu hủy tập nhựt ký của tôi chỉ đơn giản là không muốn các chi tiết ghi chép bị lọt ra ngoài nếu tôi không mang theo được bên mình, đâu có ngờ rằng điều đó đã làm cho tôi ân hận mãi, vì nếu còn giữ được cho đến bây giờ, nó sẽ là những chứng liệu vô cùng hữu ích cho một số các sự việc mà giờ đây vẫn còn trong vòng tranh cãi!

Tôi nhét vội hai bộ đồ cùng các giấy tờ tùy thân và cây súng rouleau nhỏ vào cái samsonite – đây là loại samsonite dùng đựng hồ sơ nhưng có bề dày khoảng một tấc có thể đựng 2 bộ đồ. Còn cây K54 tôi nhét vào thắt lưng tuy đã có lịnh tuyệt đối không được mang theo vũ khí.

Vì nóng lòng muốn về chào từ biệt má tôi và anh em lần chót, tôi hỏi Thiếu tá Thông cho tôi ra ngoài khoảng 15 phút. Ông đồng ý và còn hứa sẽ “ lo bảo đảm an ninh của anh Tư.” Tôi liền gọi tài xế đem xe ra cổng trước chờ ...

Cũng trong thời điểm này, tại cơ quan CIA…
“Khoảng 8 giờ 30, bốn người chúng tôi đi trên ba xe đến Bộ Tổng Tham mưu của Nam Việt Nam nằm bên ngoài Tân Sơn Nhứt. Khiêm có nhà riêng ở đây. Joe và tôi giấu vũ khí dưới chỗ ngồi. Chúng tôi lo sợ một việc không lành có thể tái diễn vụ ám sát anh em ông Diệm trước đây… trên đường đi nếu có những sĩ quan trẻ Việt Nam chận chúng tôi lại, ra lịnh cho chúng tôi xuống xe và … định hạ thủ. Chúng tôi quyết định phải mang vài đứa theo chúng tôi…” Đó là dự tính của nhóm ông Frank Snepp trước khi đoàn xe lên đường vào nhà Đại tướng Khiêm. (Decent Interval, trang 435)

Tôi vừa bước ra tới cửa, giật mình thấy có ba chiếc xe Chevrolet to lớn màu đen, mang bản số ngoại giao, đang đậu ngay trước cổng nhà, sát bức tường phòng thủ của bộ Tổng Tham Mưu. Đoàn xe hướng đầu về phía cổng chánh.

Tôi liền đổi ý, trở vào nhà thì gặp Đại tướng đang ngồi ở phòng khách. Ông gọi tôi lại và giao cho tôi một gói đồ được gói trong giấy hồng điều thật đẹp. Gói quà có kích thước bề ngang khoảng 5 tấc, cao độ 3 tấc, dày một tấc. Đại tướng Khiêm dặn, “ Phận, giữ cái này là món quà tặng. Một chút nữa Tổng thống Thiệu tới đi thì đem theo.” Tôi xách gói quà lên để cân sức nặng, không nặng mà cũng không nhẹ. Lúc Đại tướng Khiêm ra lịnh như vậy, qua thái độ và cử chỉ của ông, tôi nghĩ đó là món quà có thể dùng để tặng ông Đại sứ Mỹ, hay là phi hành đoàn, hoặc một nhân vật nào ở Đài Bắc…Trong suốt cuộc hành trình vì là món quà quí nên tôi phải ôm nó trong người mà vẫn không tài nào đoán ra ở trong đó có cái gì cho tới khi đến Đài Bắc.

Khi nghe nói “Tổng thống Thiệu tới đi ” thì tôi thấy rõ ràng không còn thời gian nhiều nữa. Tôi vội chạy lên lầu, vào phòng làm việc của Đại tướng, nhấc điện thoai gọi tổng đài Phủ Tổng thống, yêu cầu cho tôi nói chuyện với khối cận vệ. Thật may mắn là Sĩ, em rể của tôi, có mặt tại đó. Sĩ là cận vệ của Tổng thống Thiệu. Tôi bảo Sĩ lên nhà Tổng Tham mưu ngay lập tức có việc cấp bách, không thể nói qua điện thoại được. Lúc này Bộ Tổng Tham mưu có lịnh kiểm soát người ra vào nghiêm nhặt. Tôi phải ra cổng chánh đón Sĩ vào.

Tôi và Sĩ đứng nói chuyện ngay trước cửa nhà Đại tướng. Tôi cho biết là tôi sẽ đi nhưng chưa biết đi đâu và căn dặn tất cả anh em Lạc, Phất nếu không đi được thì về Tây Ninh, sống gần gũi, nương tựa nhau. Tôi đưa cho Sĩ địa chỉ nhà của ông bà Đại tướng ở Đài Bắc. Chúng tôi cả hai đều khóc. Lúc này là vào khoảng 8 giờ 30.

Tại lầu ba dinh Độc Lập, bên cánh trái…

Vào khoảng 7 giờ 30 tối. Trong phòng ngủ, Tổng thống Thiệu thay đồ bốn túi, bộ đồ nầy may bằng vải gabardine màu nhà binh tại nhà may Huỳnh Hoan. Tiệm may nầy nằm trên con đường nhỏ ở quận Nhứt, hiện nay vẫn còn. Ông đi qua phòng nhỏ cạnh phòng ngủ, nghiêng đầu qua cửa sổ nhìn xuống. Dưới sân, bên cạnh thềm tam cấp một chiếc xe Mercedes màu xanh đậm đang đậu tại đó. Người cầm tay lái là Đại Tá Nhan Văn Thiệt. Ông Thiệt đã từng giữ chức vụ Trưởng khối An ninh Phủ Tổng thống. Khối An ninh là tiền thân của Khối Cận vệ sau này…
*****
Thấy mọi việc đã sẵn sàng, Tổng thống Thiệu vội vã rút trong hộc tủ ra cây Browning đã lắp đầy đạn, ông khóa chốt an toàn rồi cho vào túi áo.

Xong xuôi ông bấm interphone gọi Sĩ quan Tùy viên trực lúc đó là HQ Đại úy Trần Anh Tuấn. Ông đưa cho Đại úy Tuấn một gói quà nhỏ và ra lịnh, “ Chú mang cái hộp này qua cụ Hương. Nếu không gặp Cụ thì ngày mai đem qua cũng được. Nhớ đừng mở ra.” Có lẽ ông đã gọi thẳng Tổng thống Hương nên biết cụ còn đang bận tiếp Đại sứ Pháp, ông Jean-Marie Mérillon, nên mới dặn Đại úy Tuấn như vậy.

Từ phải qua, Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, đang chỉ tay, Đại sứ Hoa Kỳ Ellsworth Bunk, giữa, Phò TT Nguyễn Cao Kỳ, áo bay đen, dịp đại sứ Bunker thăm Việt Nam năm 1969. Photo Larry Burrows/Time Life magazine
Khi ông và Đại úy Tuấn vừa bước ra khỏi phòng thì lúc đó Đại sứ Mérillon cũng vừa từ phòng làm việc của Tổng thống Hương bước ra. Thấy vậy ông Thiệu cùng với Đại úy Tuấn đi qua tận văn phòng, trao cái hộp quà này cho Tổng thống Hương. Trao quà xong, Tổng thống Thiệu và Đại úy Tuấn quay trở về bên cánh trái. Khi tới cầu thang máy, anh cận vệ bấm nút mở cửa cầu thang. Trước khi bước vào, ông Thiệu xoay lại dặn Đại úy Tuấn, “ Tôi đi qua nhà Đại tướng ăn cơm rồi trở về, chú khỏi đi theo.” Ông lanh lẹ bước vào thang máy. bấm nút tầng trệt.

Đại úy Tuấn vì thấy có nhiều sinh hoạt khác thường, dự đoán là hôm nay ông Thiệu sẽ đi. Muốn để cho ông yên tâm nên cả buổi chiều anh cố tìm cách lánh mặt và mỗi l= ần theo ông đi đâu, anh đi cách xa ông.

Tại tầng trệt, khi cánh cửa cầu thang mở ra thì Đại tá Điền đã túc trực tại đó. Tổng thống Thiệu vừa bước xuống bậc tam cấp thì cũng vào lúc hai anh cận vệ xuất hiện, Sanh và Khình vừa đến để đổi gác, làm ông giật mình. Tổng thống Thiệu và Đại tá Điền lanh lẹ bước vào xe. Đại tá Điền ngồi bên phải của Tổng thống Thiệu ở băng sau; Đại tá Điền ngồi vào chỗ ngồi chánh thức của Tổng thống Thiệu – Trần Thanh Điền muốn làm Lê Lai cứu Chúa! Vừa ngồi vào xe, Tổng thống Thiệu liền hỏi Đại tá Điền, “ có mấy cây súng? ” Đại tá Điền đáp, “có hai cây: một cây dài, một cây ngắn.” Đại tá Thiệt lập tức đạp ga cho xe chạy vòng qua sân cỏ, lướt ngang qua thềm đại sảnh, rồi tiến thẳng ra cổng chánh là đầu đại lộ Thống Nhất.
Từ trái qua, Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, đang bắt tay Đại tá Trần Thanh Điền,
giữa là Bí thư Hoàng Đức Nhã, năm 1974 .Hình tài liệu VPTT

Trên khán đài danh dự nằm trên đại lộ Thống Nhất này, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, vào Ngày Quân Lực, đã từng đón nhận “ những chiến sĩ anh hùng của các đơn vị anh hùng ” về đây với những vòng hoa chiến thắng trong sự chào đón hân hoan nồng nhiệt của mọi giới đồng bào. Những lời hiệu triệu của vị Tổng Tư lệnh Quân lực Việt Nam Cộng Hòa trước những đoàn hùng binh chiến thắng đó vẫn còn nghe âm vang đâu đây khi xe ông lướt nhanh qua.
Đại lộ này cũng đã từng chứng kiến nhiều dòng lịch sử đổi thay của ba trăm năm Sài-Gòn trong trái tim đồng bào miền Nam. Nay con đường này không còn tên là Thống Nhất nữa!

Đoàn xe rẽ trái trên đường Pasteur rồi theo đường Hiền Vương quẹo mặt trên đường Công Lý... tiến thẳng trên đại lộ Cách Mạng 1-11. Xe vào cổng chánh Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng Hòa rồi rẽ phải. Lúc xe Tổng thống Thiệu sắp chạy ngang nhà Đại tướng Khiêm thì tôi nhận ra ngay. Tôi nói với Sĩ, “xe Tổng thống tới.” Tôi vội tránh vào đoàn xe ngoại giao, nhưng không kịp nữa. Đèn xe Tổng thống chiếu ánh sáng màu vàng tím cực mạnh làm tôi chóa mắt. Xe không vào nhà Đại tướng Khiêm mà chạy thẳng về nhà Tổng thống Thiệu.

Thời giờ đã quá cấp bách nên tôi khuyên Sĩ hãy về đi.

Trời đã vào đêm, không khí vẫn còn hơi đất nhưng tôi cảm thấy có một cảm giác lành lạnh. Hai người Mỹ đứng bên cạnh xe bên kia đường làm cho tôi vững tâm hơn. ( lúc đó tôi chỉ thấy có 2 người ). Ít ra thì sự có mặt của họ cũng phần nào giúp tôi bớt lo ngại về mặt an ninh. Riêng có một mình tôi thì làm gì được nếu có manh động nào xảy ra. Thật là may mắn, không có tiếng súng nổ, không có tiếng pháo của địch.

Trên đường Võ Tánh mới đây người người tranh giành, chen lấn nhau chạy giặc, bóp kèn inh ỏi. Giờ này bắt đầu giới nghiêm nên hoàn toàn vắng lặng. Cả một vùng không gian yên lặng nặng nề. Tôi vội vã bước vào nhà.

Tôi chạy thẳng lên phòng làm việc của Đại tướng một lần nữa. Lúc này Đại Tướng đang ở phòng ngủ. Tôi lấy điện thoại gọi số 57340 là điện thoại nhà ba vợ tôi ở đường Sư Vạn Hạnh, khu An Đông. Khi nghe tiếng ông, tôi liền thưa: – “Dạ thưa Ba, một chút nữa con đi.” – “Dượng Tư đi phải không? ” Ba tôi hỏi lại. – “Dạ, con đi.” Tôi đáp. Tôi không nói “ dượng Tư đi ” mà chỉ nhấn mạnh hai tiếng “con đi”. Tôi biết ông hiểu ý tôi muốn nói gì.

Đồng thời tôi xin địa chỉ nhà ở bên Pháp. Tôi phải chờ hơi lâu. Có lẽ ông không có sẵn địa chỉ thành ra thời gian lúc đó dài lê thê làm tôi đâm ra lo. Một lúc sau ông mới đọc địa chỉ được. Tôi lấy lại bình tĩnh rồi đi mau xuống lầu.

Trong lúc tôi nói chuyện điện thoại ở trên lầu thì:

“Một chiếc Mercedes màu xanh chạy vào cổng nhà Đại tướng Khiêm. Người có tầm vóc trung bình, tóc bạc, chải gọn ra sau, da mặt bóng láng, trong bộ quần áo xám chỉnh tề, bước xuống đất. Trong bóng đêm, Nguyễn Văn Thiệu giống như người mẫu trong tạp chí Gentleman’s Quarterly hơn là một cựu nguyên thủ quốc gia. Ông ta vội vã bước vào nhà mà không thèm nhìn chúng tôi.”

Tổng thống Thiệu đã về đến nhà ông, thay đồ lớn (bộ đồ Trung tá Chiêu đem về) rồi mới qua bên nhà Đại tướng Khiêm như Frank Snepp nói ở trên. (Decent Interval, trang 435) . Khi Frank Sneep nói da mặt bóng láng có thể làm cho mọi người nghĩ là Tổng thống Thiệu đang thoa kem. Thực tế, làm việc nhiều năm bên cạnh ông, chúng tôi cũng ngạc nhiên là ông có làn da mặt sáng bóng một cách tự nhiên, lạ lùng.
*****
Từ trên lầu xuống, khi đi ngang qua phòng ăn tôi giật mình thấy Tổng thống Thiệu đang ngồi nói chuyện với Đại tướng Khiêm ở phòng khách. Hai ông đang uống rượu, tôi nghĩ vậy. Frank Snepp sau này xác nhận khi lái xe đưa Tổng thống Thiệu ra phi trường, lúc nói chuyện có nghe mùi rượu.
Tổng thống Thiệu và Đại tướng Khiêm nói chuyện vừa đủ nghe trong bầu không khí tương đắc, giống như những ngày nào Tổng thống Thiệu tiếp Đại tướng Khiêm tại phòng ăn gia đình trong khu Hậu dinh, dinh Độc Lập – nơi ngự trị của vị lãnh đạo tối cao có uy quyền lẫy lừng nhất nước trong suốt gần một thập niên dài.

Trang tài liệu viết tay của cựu TT Nguyển văn Thiệu trình TT Trần văn Hương ngày 25 tháng 4, 1975. tài liệu do tác giả cung cấp
* * * *
Những văn kiện ngoại giao viết tay!
Thật là điều may mắn, trái với suy đoán của tôi, tất cả mọi nhơn viên làm việc đều là những người trung thành. Họ ít ra cũng đã trải qua một lần kinh nghiệm. Đó là lần Đại tướng Khiêm bị lưu vong dưới thời Đại tướng Nguyễn Khánh. Sau khi chia tay lại là những ngày sum hợp. Đại tướng đi rồi Đại tướng lại về. Họ cũng nghĩ rằng lần đi của Đại tướng kỳ này rồi cũng phải trở về. Thiếu tá Thông cũng có cho tôi biết: “ Khi mọi việc xong xuôi Đại tướng Minh cũng muốn anh Tư về hợp tác. Minh chỉ đi lánh mặt một thời gian.” Cho nên nếu có đi thì tôi hy vọng cũng được trở về. Thành ra các anh em kia cũng có một niềm hy vọng giống như tôi. Ngày chúng tôi lên đường là ngày 25/4/1975. Lúc đó cụ Trần Văn Hương cũng vừa lên làm Tổng thống được 4 ngày mà đã có sự tiên liệu “ Đại tướng Minh sẽ mời anh Tư trở về “ thì cũng cho chúng ta biết thêm một dữ liệu về các diễn biến chánh trị sau đó, đã được thấy trước. Sở dĩ được biết trước là vì trước đó một ngày, là ngày 24 tháng Tư, tại tư dinh Đại tướng Khiêm trong Bộ Tổng Tham Mưu , Tổng thống Trần Văn Hương, Luật sư Nguyễn Văn Huyền và Đại tướng Dương Văn Minh được trực thăng riêng của Đại tướng Khiêm rước vào để họp cùng với Đại tướng Khiêm. Đây là buổi họp rất đặc biệt và vô cùng quan trọng, phải giữ kín đến đỗi ngay cả Tổng Thống Hương cũng phải dùng trực thăng riêng của đại tướng để di chuyển. Buổi họp kéo dài từ 11 giờ 15 cho tới gần 1 giờ trưa. Tôi quan sát trên nét mặt lúc đó, khi ra về, các quí vị lãnh đạo quốc gia đã tỏ ra không đồng thuận lắm – theo nhận xét của riêng tôi – trước giờ phút lâm nguy của đất nước. . . Sáng hôm sau là ngày 25 tháng Tư, Đại tướng Khiêm lại vào dinh Độc Lập họp với cựu Tổng thống Thiệu cùng với Tổng thống Trần Văn Hương và ông Đại sứ Jean-Marie Mérillon của nước Pháp. . .

Chương trình họp nói trên tôi có ghi trong sổ tay.

Thông qua các buổi họp như vậy, những nhà làm chánh trị, những nhà bàn luận thời cuộc, những nhà chạy tin có cơ hội để “ luận cổ suy kim.” Thiếu tá Thông là người hay suy luận nhưng ông là người thành thật và rất tốt bụng. Ông có những lập luận khéo léo, có ý cho tôi biết những gì ông nói chỉ là suy đoán, có nghĩa là không phải ý đó phát xuất từ “ anh Tư.” Riêng tôi, qua những gì tôi quan sát tận mắt, nghe ngóng dư luận và theo dỏi báo chí, tôi cũng có những nhận định giống như vậy – Đại tướng sẽ có cơ hội trở về . . .
Bước ra phía trước nhà, tôi thấy ông Thomas Polgar đang ngồi tại bàn viết của Sĩ quan Tùy viên. Ông kiểm soát lại danh sách phái đoàn để điền tên vào parole documents, dựa vào bản văn của Tổng thống Thiệu.

Danh sách phái đoàn do cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trình lên Tổng thống Trần Văn Hương có nội dung như sau: (Tổng thống Thiệu viết tay)
Kính trình Tổng thống Trần Văn Hương,
Thưa Cụ,

Để thực hiện công tác cụ giao phó, tôi kính xin cụ chấp thuận cho những sĩ quan sau đây gọi là thành phần tối thiểu cần thiết để giúp tôi, đi theo tôi trong suốt thời gian công du:

1. Đại tá Võ Văn Cầm

2. Đại tá Nguyễn Văn Đức

3. Đại tá Nhan Văn Thiệt
4. Đại tá Trần Thanh Điền

5.Trung tá Tôn Thất Ái Chiêu

6. Bs Thiếu tá Hồ Vương Minh

7. Đại úy Nguyễn Phú Hải (giờ chót không có mặt)

8. Phục dịch viên Nghị (giờ chót không có mặt)

Ngoài ra, Cựu Thủ tướng Đại tướng Trần Thiện Khiêm cũng cần đem theo những sĩ quan và dân sự sau đây:

1. Trung tá Đặng Văn Châu

2. Thiếu tá Đinh Sơn Thông

3. Thiếu tá Nguyễn Tấn Phận

4. Ông Đặng Vũ (giờ chót không có mặt)

Đại tướng Trần Thiện Khiêm nhờ tôi trình cụ chấp thuận ./.

Kính chào Tổng thống

(ký tên Thiệu)

Tổng thống Trần Văn Hương phê thuận,

Đề ngày 25/4/75

Và ký tên Trần Văn Hương

* * * *
Ở đây có một sự trùng hợp lịch sử. Khi viết danh sách phái đoàn để trình lên Tổng thống Trần Văn Hương, cựu Tổng thống Thiệu muốn Đại tá Cầm đánh máy, Đại tá Cầm không biết đánh máy, ông Thiệu đành phải viết tay; khi có lịnh của Đại sứ Martin là phải mang theo bàn đánh máy khi đến nhà Đại tướng Khiêm, ông Polgar quên đem theo bàn đánh máy. Thành ra hai văn kiện: một là danh sách phái đoàn của Tổng thống Thiệu và hai là tên điền vào mẫu parole documents đều không đánh máy, mà phải viết tay.

Cựu Tổng thống Thiệu, với bản tánh cố hữu, người luôn luôn nghĩ xa, ra lịnh cho Đại tá Cầm ở Đài Bắc làm nhiều bản photocopy danh sách phái đoàn do Tổng thống Trần Văn Hương chấp thuận, phát cho mỗi người một bản để trong trường hợp cần thì có thể làm bằng chứng với Sở Di trú của quốc gia sẽ đến định cư. Lúc đó chúng tôi chưa biết đi đâu.

*****
Tại hành lang trước nhà, trong ánh sáng mờ mờ ảo ảo, các ông Đại tá Cầm, Thiệt, Đức, Điền, Trung tá Chiêu, Bác sĩ Minh đang xúm xích bàn chuyện nhỏ to. Mọi người đều ăn mặc chỉnh tề có vẻ như là những quan chức lớn sắp lên đường đi công tác ở ngoại quốc hơn là sắp đi tỵ nạn. Tất cả chúng tôi cũng không ai tin là sẽ đi tỵ nạn. Trên tay mỗi người xách một túi sắc nhỏ. Cũng cần nói thêm, Đại tá Cầm là người rất nhiệt thành với công vụ và cũng là cấp thừa hành “ một cách triệt để.” Sau khi Tổng thống Thiệu ra lịnh “mỗi người chỉ được đem theo một xách tay nhỏ,” thì ông lại khuyên anh em “không nên mang theo gì hết – nên đi tay không! ”
* * * *
Đoạn đường dài như vô tận
Đúng 9 giờ tối…
Vừa điền giấy xong thì ông Thomas Polgar phân phát tờ parole document (tờ tạm cư) cho từng người. Ngay khi vừa đến Đài Bắc, “Cơ quan Đại diện Mỹ” tại đây lập tức thu hồi lại tất cả, duy chỉ có mỗi Trung tá Chiêu, không hiểu sao ông vẫn còn giữ được tờ giấy này.

Chúng tôi lần lượt ra xe và yêu cầu họ mở cốp sau. Tôi bỏ cái samsonite vào, (Lúc ông Polgar đang viết, tôi đã bỏ cây K54 vào samsonite ) hai khẩu súng nhỏ va chạm vào nhau khua lộp cộp. Trong sách của Frank Snepp có nhắc tới chuyện này. Ông có nghe tiếng kim loại khua khi chúng tôi xếp sắc tay vào cốp xe, và có thể nghĩ đó là tiếng va chạm của vàng bạc, châu báu!

Liền sau đó Tổng thống Thiệu, Đại tướng Khiêm, Polgar, Timmes cùng ra xe. Đại tướng Khiêm ngồi xe trước với ông Polgar. Tổng thống Thiệu ngồi xe sau với tướng Timmes; ông ngồi giữa tướng Timmes và Đại tá Đức, Trung tá Chiêu ngồi ghế trước với tài xế là ông Frank Snepp. Chúng tôi chia nhau vào hai xe còn lại.

Thời gian từ lúc ông Thiệu đến nhà Đại tướng Khiêm đến khi bắt đầu ra xe kéo dài độ 10 phút!
Đoàn xe bắt đầu chạy hướng về cổng chánh Bộ Tổng Tham mưu, vừa ra khỏi cổng thì quẹo phải, đi thẳng vào cổng phi trường Tân Sơn Nhứt.

Tôi giật mình khi nhận ra cả khu vực phi trường tối om. Dường như hệ thống điện hoàn toàn bị cắt. Nhìn vào cổng VIP – khu vực dành riêng cho các viên chức cao cấp – giờ nầy vắng tanh giống như cổng vào bãi tha ma. Đoàn xe chạy vòng qua khu dành riêng cho hảng Air America của cơ quan tình báo Mỹ. Khi sắp tới đường băng, tất cả xe đều tắt đèn, di chuyển trong bóng đêm. Sau đó bóng một chiếc máy bay lù lù hiện ra dưới chân trời nhờ đèn trong buồng máy cháy sang, một loại máy bay giống như DC6. Khi tới gần chiếc máy bay, đoàn xe bất thần thắng gấp vì thấy có bóng người. Xe thứ hai ủi tới suýt đụng vào xe đi trước vì trời tối. Hai xe sau tạt qua hai bên hông xe Tổng thống Thiệu. Chiếc xe tôi ngồi vừa thắng gấp vừa bẻ tay lái kêu nghe ken két. Một cuộc biểu diễn ngoạn mục. Dù đó là do sắp xếp hay chỉ là một “tai nạn” nhưng dưới con mắt an ninh họ là những thành phần phải được liệt vào hàng các tay bảo vệ yếu nhân chuyên nghiệp. Xe Tổng thống Thiệu bị bao vây bởi ba chiếc xe Chevrolet to lớn. Xa xa trong bóng đêm, xung quanh chúng tôi xuất hiện có nhiều người Mỹ vạm vỡ, vận thường phục, súng M16 dựng đứng bên hông, trong thế tác chiến… Chúng tôi tông cửa xe, bước xuống mau. Tổng thống Thiệu đi trước, Đại tướng Khiêm theo sau, rồi Polgar, Timmes. Chúng tôi nối đuôi theo sau. Hình ảnh ông Đại sứ Graham Martin – một quan Khâm sai của Đại Vương quốc Hoa Kỳ – hiện ra tại chân cầu thang máy bay như một vị thần hộ mạng, giống với hình ảnh ông thần miễu Ông Tà ở Ô-Môn quê tôi mà hồi nhỏ tôi đã tưởng tượng ra: đôi mắt xanh, tóc bạc trắng, hai tay dài lòng thòng… ai cũng phải sợ. Tổng thống Thiệu bắt tay ông Đại sứ. Hai bên trao đổi mấy lời. Tất cả leo lên mau. Tổng thống Thiệu, Đại tướng Khiêm, tướng Timmes vào buồng danh dự. Tại đây có bốn ghế bành bọc vải trắng. (Sau nầy mới biết đó là máy bay riêng của đại sứ Martin) Đại sứ Martin vào tận buồng máy nói vài lời tiễn biệt rồi vội vã rời máy bay. Chúng tôi mạnh ai nấy tìm chỗ ngồi ở các hàng ghế phía sau. Vào thời điểm nâỳ, Trung tá Nguyễn văn Phú Hiệp là phi công chiếc máy bay Air Việt Nam 727 có lịnh ứng trực, chuẩn bị sẵn sàng, chỉ dành riêng cho Tổng thống Thiệu sử dụng. Trung tá Hiệp trước kia là Trưởng phi hành đoàn trực thăng Phủ Tổng thống. Anh Hiệp, giờ chót không đi được, sau nầy chết trong trại tù Cộng sản. Cũng vào thời gian nói trên, một vài đơn vị trưởng các đơn vi phòng thủ Thủ Đô, và các đơn vị đóng quân gần khu vực phi trường Tân Sơn Nhứt được nghe dư luận đồn đải là có người rỉ tai: “ ông Thiệu sẽ dùng Air Việt Nam để ra khỏi nước. . .”

Khi tất cả chúng tôi ngồi vào chỗ rồi thì Tổng thống Thiệu từ phía trước bước ra sau chỗ chúng tôi. Ông đứng giữa hai hàng ghế với khuôn mặt không còn giống như hồi ở nhà Đại tướng nữa. Nét nghiêm nghị như giận dữ hiện rõ trên khuôn mặt như tôi đã từng chứng kiến nhiều lần trước kia. Các sĩ quan làm việc quanh ông đôi khi phải đón nhận những phản ứng dữ dội từ ông, thay cho các đối tượng mà ông vì cần phải giữ hòa khí ở một mức độ có thể coi được, ông thường “giận cá chém thớt” và hay “phang nhầm” chúng tôi. Với cái nhìn sáng quắc, mặt đỏ gay, Tổng thống Thiệu gằn từng tiếng: “Nè, các chú nhớ là không được nói gì hết. Có ai hay báo chí hỏi thì trả lời là không biết gì hết! Nghe chưa! ” Nói xong ông liền trở về phía trước.

Đoạn đường từ Bộ Tổng Tham mưu đến đây không xa, chỉ là một khoảng đường rất ngắn nhưng với tôi nó thật dài. Cho tới bây giờ, khi ngồi ghi lại những dòng nầy tôi vẫn còn cảm thấy mọi việc như vừa mới xảy ra!

Đúng 9 giờ 15 phút, giờ Sài-gòn.

Buồng máy máy bay tắt đèn. Phi cơ từ từ lăn bánh ra phi đao, đem theo hai vị lãnh tụ quốc gia, một tướng lãnh Mỹ và 9 “quan” tùy tùng, hộ vệ! Chiếc phi cơ lượn một vòng trên bầu trời “đen tối” của không phận Sài-Gòn, rồi hướng về biển Đông…

Tôi bật người ra thành ghế, hít một hơi thở thật dài, nhắm mắt lại; hai dòng lệ từ từ lăn xuống má...

Xin giã biệt quê hương… tạm biệt mọi người thân…

Bí mật của gói quà!
Tôi ôm cái món quà của Đại tướng trong suốt chuyến bay. Suy nghĩ vẩn vơ. Đi đâu làm gì ở xứ người. Một quân nhân Mỹ, đoàn viên phi hành ngồi gần cửa cầu thang, luôn luôn bận rộn nhiệm vụ liên lạc. Thỉnh thoảng anh liếc tôi. Anh không cười cũng khô= ng nói gì. Có lẽ anh thông cảm hoàn cảnh của những kẻ sắp xa nhà. Thỉnh thoảng tôi nhìn ra cửa sổ. Cũng chỉ là một màu đen.

Chúng tôi không ai nói chuyện với ai. Mỗi người theo đuổi những ý nghĩ riêng tư của mình…
* * * *
Chiếc máy bay bắt đầu giảm độ cao, đảo một vòng rồi từ từ hạ cánh. Đường bay nằm dài trước mặt là phi trường Đài Bắc. Chiếc C118 bốn động cơ của Không lực Hoa Kỳ đáp xuống nhẹ nhàng rồi từ từ dừng hẳn. Tôi nhìn đồng hồ. Đúng 3 giờ 40 sáng. Anh Hạ sĩ quan mở cửa cầu thang. Gió ùa vào nghe lành lạnh. Mọi người lần lượt xuống máy bay. Tại chân cầu thang, dưới ánh điện lờ mờ, tôi nhận ra bà Nguyễn Văn Kiểu, phu nhân ông Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Đài Bắc; một vị Trung tá, Tùy Viên Quân Sự tại tòa đại sứ Việt Nam; một nhân viên cao cấp của Bộ Ngoại giao Trung Hoa Dân quốc – ông này nói tiếng Việt rất giỏi; một hai người nữa tôi không biết tên; và một nhân vật không kém phần quan trọng, đó là Trưởng Chi nhánh tình báo Hoa Kỳ tại Đài Bắc, tôi không biết tên. Gió ở Đài Bắc lạnh hơn Sài-Gòn. Lại có những cảm giác là lạ lướt qua mau, khác hơn nhũng cảm giác ở quê nhà. Lòng bồn chồn khó tả. Có một điều đặc biệt là không có mặt sĩ quan Di trú vào lúc này tại phi trường vì đây là một trường hợp ngoại lệ . . . Để cho mọi việc có danh chánh ngôn thuận, và vào giờ chót muốn dành cho cựu Tổng thống Thiệu và Đại tướng Khiêm một danh dự của chuyến đi, Tổng thống Trần Văn Hương ký Quyết định đề cử cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu hướng dẫn một phái đoàn đi Đài Bắc. Bản văn có nội dung như sau: ( bản văn này Đại tá Cầm viết tay )Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Trần Văn Hương

Quyết định
1 – Nay đề cử cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và cựu Thủ tướng Trần Thiện Khiêm đại diện Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa đến Đài Bắc để phân ưu cùng Chánh phủ và Nhân dân Trung Hoa dân quốc nhân dịp Tổng thống Tưởng Giới Thạch tạ thế.

2 – Sau đó hai vị trên được đề cử tiếp tục viếng thăm các quốc gia trên thế giới xét cần thiết trong vòng 6 tháng để làm sáng tỏ thiện chí hòa bình của Việt Nam Cộng Hòa đồng thời vận động các Chánh phủ và nhân dân các quốc gia đó hỗ trợ lập trường hòa bình của Chánh phủ và nhân dân ta.

Chương trình thăm viếng sẽ do hai vị tùy nghi quyết định thể theo sự thuận lợi của tình hình đối với các quốc gia đó.

3 – Yêu cầu Bộ Ngoại giao chỉ thị các Tòa Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa yểm trợ cần thiết để nguyên Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và nguyên Thủ tướng Trần Thiện Khiêm cùng phái đoàn chu toàn nhiệm vụ giao phó.

4 – Chi phí công tác do Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng đài thọ trong khuôn khổ được luật lệ ấn định. (Tổng thống Hương viết thêm hàng chữ: trong khuôn khổ được luật lệ ấn định).
Sài-gòn, ngày 25 tháng 04, 1975
(ký tên Hương)


Khi ký tên trên văn bản này Tổng thống Trần văn Hương, một lần nữa cho thấy sự cẩn trọng và nghiêm túc trong công việc, tác phong của một nhà lãnh đạo xuất thân từ giới mô phạm. Cụ Hương là một nhân sĩ, là một nhà chánh trị được đại đa số nhân dân miền Nam ngưỡng mộ. Cụ cũng là một nhà hành chánh nổi tiếng công bằng liêm khiết. Trần Văn Hương, một tên tuổi được đánh giá là một trong vài nhân sĩ cuối cùng của miền Nam Việt Nam, đã quyết định ở lại sau 30 tháng Tư 1975 và kết thúc cuộc đời trên quê hương của mình…

Vào thời kỳ bầu cử Tổng thống năm 1967, lúc đó từ Đại đội Trinh sát / Sư đoàn 5 Bộ binh, tôi được điều động khẩn cấp về Sài Gòn để bảo vệ an ninh cho Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia; khi đi bỏ phiếu tôi chọn Liên danh Trần Văn Hương – Mai Thọ Truyền thay vì Liên danh Nguyễn Văn Thiệu – Nguyễn Cao Kỳ. Tôi là một quân nhân trẻ mang nhiều lý tưởng cũng như nhiều bạn trẻ khác. Các anh em ấy hầu hết đã tốt nghiệp đại học ở trong nước cũng như từ ngoại quốc trở về, đang phục vụ trong mọi ngành, mọi giới; họ làm việc bên hành chánh cũng như đang phục vụ trong quân đội. Chúng tôi thường gặp gở, trao đổi ý kiến và cùng đi đền một nhận định chung là quần chúng Nam Việt Nam, lúc bấy giờ, chưa sẵn sàng đón nhận một Tổng thống và một Phó Tổng thống xuất thân từ quân đội.

Tổng thống Thiệu và đoàn tùy tùng của ông về nhà Đại sứ Nguyễn Văn Kiểu. Đại tướng Khiêm và chúng tôi về nhà Đại tướng Khiêm.

Sau khi gõ cửa vài phút thì có người ra mở cửa. Tôi nhìn vào thấy bà Đinh Thủy Nga, bà Trần Bạch Yến. . . đứng khép nép bên trong, vừa mừng vừa lo. Đại tướng bước vào trước. Chúng tôi lần lượt vào sau. Nghe có tiếng người nói chuyện lào xào, bà Trần Thiện Khiêm thức giấc. Bà bước ra khỏi phòng trong bộ áo ngủ, đứng tựa lan can nhìn xuống. Yên lặng trong vài giây rồi bà từ từ quỵ xuống sàn nhà. Bà cố gắng lần xuống tới giữa cầu thang, khi nhận ra Đại tướng, bà kêu lên, “ Anh đó hả? ” rồi òa lên khóc…
* * * *
Những ngày ở Đài Bắc Tại một villa nhỏ 3 phòng ngủ có lầu ở ngoại ô thành phố Đài Bắc, Đại tướng Khiêm và chúng tôi không có việc gì làm, buồn và nhớ nhà nên thường hay bắt đài phát thanh Sài-gòn để theo dõi tin tức. Các sự kiện đáng chú ý nghe được qua làn sóng đài phát thanh được tôi ghi chép như sau: Ngày 27 tháng 4 – 20 giờ Tổng thống Trần Văn Hương yêu cầu quốc hội chọn người thay thế ông để thương thuyết với Cộng sản – 20 giờ 45 Quốc hội họp. – 2 giờ 25 Quốc hội biểu quyết chọn Đại tướng Dương Văn Minh làm Tổng thống thế Tổng thống Trần Văn Hương. Ngày 28 tháng 4 – 17 00 giờ Lễ bàn giao chức vụ Tổng thống giữa cụ Hương và Đại tướng Dương Văn Minh được cử hành tại dinh Độc Lập Cụ Hương trao quyền Tổng thống lại cho Đại tướng Minh lúc 17 giờ 15. Tân Tổng thống Dương Văn Minh chọn cụ Huyền làm Phó Tổng thống, ông Vũ Văn Mẫu làm Thủ tướng… trong bài diễn văn cụ Hương nhấn mạnh “hãy quên oán thù, đừng tạo thêm oán thù”... Ngày 29 tháng 4 . . .sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm được thả. Lý Quí Chung được đề cử Tổng trưởng Thông tin. Cộng sản phá cảng Newport, đốt kho dầu gần xa lộ, chiếm vài xã ở Gò Vấp… Ngày 30 tháng 4… Lúc 11giờ 15, Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố trao quyền lại cho Chánh phủ “Cách Mạng Lâm Thời miền Nam Việt Nam”. Có tin VC đã cắm cờ trên thượng đài dinh Độc Lâp lúc 13 giờ. (giờ Sài-gòn…)

Các tin trên được tôi ghi nhận qua chiếc máy thâu thanh hiệu Zenith 4 băng, có băng tần làn sóng ngắn, và nghe rất rõ tiếng nói của đài phát thanh Sài-gòn.

Cái radio đó chính là món quà gói trong giấy màu hồng điều thật đẹp mà tôi trân trọng cất giữ từ khi Đại tướng Khiêm trao cho tôi ở Sài-Gòn như đã nói ở trên.

* * * *
Một thời gian sau đó, bà Anna Chennault tuân hành lịnh của Tổng thống Hoa Kỳ Gerald Ford từ Hoa Thịnh Đốn qua Đài Bắc, Đài Loan để gặp Tổng Thống Thiệu và Đại tướng Khiêm.
Bà Anna Chennault là vợ của vị tướng anh hùng thời Đệ II Thế chiến, Trung tướng Claire Lee Chennault Tư lệnh Không đoàn 14 của Không Lực Hoa Kỳ hoạt đông ở Trung Hoa lục địa. Bà Anna Chennault sau nầy là một nhân vật quan trọng trong Bộ Tham mưu tranh cử của ông Richard Nixon; bà là người trung gian trong sự liên hệ mật thiết giữa ông Nixon và Tổng thống Thiệu trong thời gian đó. Nhiệm vụ trong chuyến đi nầy của bà là chuyển lời Tổng thống Hoa Kỳ yêu cầu Tổng thống Thiệu và Đại tướng Khiêm đừng vào nước Mỹ.
Như trước đã nói, Thủ tướng Lý Quang Diệu thông báo là giới chức Mỹ muốn ông Thiệu sống lưu vong ở các nước Đông Nam Á. Tổng thống Thiệu đã ở Đài Bắc trong một thời gian khá lâu là đúng với những gì chánh quyền Mỹ muốn. Gợi ý của Tổng thống Trần Văn Hương với Đại tướng Khiêm trước kia chắc có lẽ cũng do ý của tòa Đại sứ Mỹ ở Sài-gòn. Nhưng theo những gì bà Chennault biết trước đó thì Hoa Thịnh Đốn đã chấp thuận và có kế hoạch đưa Tổng thống Thiệu vào Mỹ. Điều này làm cho bà Chennault rất bất mãn khi được lịnh qua gặp ông Thiệu trong một tình huống thật khó xử vì chánh sách “nước đôi” của Hoa Kỳ; hơn nữa bà là bạn thân được Tổng thống Thiệu tin cậy trong mối liên hệ mật thiết giữa Tổng Thống Thiệu và Tổng Thống Richard Nixon, mà huyền thoại- hay là sự thật – về bà đối với việc đắc cử của Tổng Thống Richard Nixon năm 1968 còn đang được nhiều người đề cập tới.

Trước hết bà Anna Chennault qua nhà thăm Đại tướng và bà Trần Thiện Khiêm. Tôi nhận thấy bà không có gì thay đổi sau nhiều năm vắng mặt ở Sài-Gòn; bà vẫn giữ được vẻ đẹp quí phái như xưa trong chiếc áo dài sườn xám đậm màu với dáng người đài các của một nhà ngoại giao lỗi lạc đã một thời gây nên nhiều tranh cãi trong chánh giới Hoa Kỳ.

Khi rời nhà Đại tướng Khiêm bà đi thẳng qua nhà Đại sứ Kiểu thăm Tổng thống Thiệu. Bà Chennault kể trong cuốn hồi ký, The Education of Anna, như sau:

“Khi đến căn nhà nhỏ của Đại sứ Nguyễn Văn Kiểu tại Đài Bắc, tôi đi vào cửa hông. Ông Kiểu tiếp tôi tại sân cỏ. Ông nói ít lời rồi nắm tay tôi dìu vào phòng khách. Ông Thiệu đã ngồi sẵn tại đó, xoay lưng về phía tôi. Thật hết sức là bất ngờ và ngạc nhiên về những gì xảy ra cho ông Thiệu…
“ Tôi đã từng gặp gỡ ông vào các ngày cuối tuần ở Bạch Dinh là tòa nhà trắng đồ sộ của Hoàng đế Bảo Đại trước kia dùng để nghỉ mát ở bãi biển xinh đẹp Vũng Tàu. Ông Thiệu cũng đã tiếp tôi tại dinh Độc Lập ở Sài-gòn, nơi mà trong một phòng khách vàng rộng lớn bên đại sãnh đường, ngay trước phòng làm việc của ông, có cặp ngà voi đứng chầu, đây là cặp ngà voi được xếp vào hàng lớn nhứt thế giới…

“ Một cảm giác đau buồn tràn ngập lòng tôi khi tôi bước tới vài bước để chào ông. Ông đứng lên và xoay lại nhìn tôi. Chúng tôi bắt tay và ôm chặt trong một giây yên lặng. Rồi cuối cùng nhìn lên mặt ông, tôi thấy nước mắt ông dâng trào.”

California, mùa Thu 2008







Nguyễn Tấn Phận- Sinh quán tại Cần Thơ, trú quán tại Tây Ninh.
- Cựu thiếu tá QLVNCH, Khóa 13 sĩ quan Trừ Bị Thủ Đức.
- Đại đội trinh sát Sư Đoàn 5 Bộ Binh.
- Sĩ quan cận vê/ Sĩ quan tùy viên Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa
- Quận trưởng kiêm Chi khu trưởng Chi khu Hiếu Thiện ( Gò Dầu Hạ)
- Đầu tháng 4-1975 được thuyên chuyển về phụ trách an ninh cho Đại Tưóng Trần Thiện Khiêm.
- Tháp tùng phái đoàn cựu Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu và cựu Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm rời khỏi Việt Nam vào buổi tối ngày 25-4-1975.
- Hiện cư ngụ tại tiểu bang California.

Sunday, October 21, 2012

Ước Hẹn - Như Quỳnh


Click Vào Đây - Nhạc phẩm Ước Hẹn/Ca sĩ Như Quỳnh

Saturday, October 20, 2012

Friday, October 19, 2012

Tạp Ghi - Nhã Dung



Thầy D Vũ Ngô Dũng gởi tôi bài Tạp Ghi của bà xả Dũng - chị Nhã Dung- và cho biết bài đã được đăng trong tập san KQ Bắc Cali Oct 2012, nhưng đa số Thầy D không có tập san nầy, Dũng muốn tôi post bài nầy lên blog cho anh em đọc. Cám ơn Dũng và chị Nhã Dung. tth

Sau đây là bài Tạp Ghi:  



TAPGHI

 

“Hà Nội, người có nhớ

  Tháp Bút chơ vơ, liễu xanh vật vờ”…

j

     Trong tiếng ồn ào nốt nhạc, lời ca cùng tiếng cười nói của dăm ba bạn thân tụ họp, một chị bạn khẽ ngân nga theo giọng hát của ca sĩ từ đĩa nhựa rồi đột nhiên bỏ dở câu hát, quay hỏi tôi hai chữ “Tháp Bút” là gì.

     Chị là người miền Nam chưa hề biẻt đến Hà Nội, còn tôi, mặc dù sinh tại Hà Nội nhưng đã bỏ nơi này theo cha mẹ cùng anh chị em vào miền Nam từ khi vừa xong bậc tiểu học.

     Ở lứa tuổi này tôi chỉ biết con đường từ nhà đến trường học và vài ba dẫy phố gần nhà. Mỗi khi được đi xa hơn, theo ông anh, bà chị ra khu hồ Hoàn Kiếm, hồ Tây dạo mát hoặc theo mẹ ra phố Hàng Đào, Hàng Bạc mua sắm, được chiêm ngưỡng những quầy hàng đủ loại nữ trang hấp dẫn dọc phố hàng Bạc, những sấp vải rực rỡ muôn mầu trên phố hàng Đào. Ở tuổi còn thơ ngây này được dẫn đi ngắm cảnh phố phường, được ăn ly kem, vài ba viên kẹo hay chiếc bánh ngọt, như vậy đã là thích thú lắm rồi.

     Chưa kịp lớn khôn đã phải rời bỏ thành phố để rồi Hà Nội chỉ còn là một địa danh trong trí nhớ nhỏ bé, hạn hẹp. Sau này, những hiểu biết về thành phố là nhờ sách vở, qua những bài học về địa lý, lịch sử và qua những câu chuyện cha mẹ kể lại nên tôi vẫn còn nhớ về một số di tích lịch sử quanh thành phố cổ kính, từng là kinh đô của nhiều triều đại từ những niên kỷ đầu lập quốc.

     Qua những lần được mấy ông anh, bà chị dẫn đi dạo phố phường, tôi đã từng đôi ba lần được dừng lại trước Tháp Bút, một công trình kiến trúc ghi dấu nền văn học và nghệ thuật kiến trúc của tiền nhân để lại.

     Đứng trước công trình kiến trúc ở vào tuổi còn bị gọi là “nhóc con”, tôi vẫn chưa có ý thức gì về nghệ thuật, về ý nghĩa của di tích lịch sử trước mắt. Tôi chỉ là chiếc bóng nhỏ bé, bị hình dáng nghêng ngang cao vòi vọi của công trình kiến trúc trang nghiêm đồ sộ này chế ngự.

     Tôi từng nghe người Hà Nội gọi tên di tích lịch sử này là Tháp Bút và còn nhớ mang máng đã có lần được ông anh giải thích xuất xứ và cội nguồn. Tuy nhiên, ở lứa tuổi vô tư bồng bềnh, nghe trước quên sau này, những gì tai nghe mắt thấy cũng tạm biến sâu vào tiềm thức của trí óc nhỏ bé. Sau này, qua sách vở, rồi khi nghe lời ca và chị bạn đặt câu hỏi tôi mới chợt nhớ lại những gì đã nghe, đã học từ thuở ngây ngô nhỏ dại.

     Tháp Bút là công trình kiến trúc vào khoảng hậu bán thế kỷ 19, dưới triều vua Tự Đức, để nêu cao tinh thần hiếu học và còn mục đích ghi nhớ sự nghiệp trong văn học của học giả Nguyễn Văn Siêu.

     Toàn bộ công trình kiến trúc tượng trưng cho nền văn học thuở đó là cây bút lông (penbrush) và nghiên mực (inkslab) mà qúy sĩ tử hoặc qúy cụ Đồ Nho thời xưa xử dụng. Tháp bút vươn cao khoảng chín thước tây, gần cạnh là nghiên mực được trạm trổ từ một tảng đá lớn thành hình dáng trái đào, dưới là thân hình ba con ếch ngạo nghễ vươn mình nâng nghiên mực tạo thành một kiến trúc uy nghi, ngoạn mục.

     Hàng năm, vào ngày Tết Đoan Ngọ (5 tháng 5 âm lịch), mặt trời buổi sáng chiếu vào tháp bút tạo thành chiếc bóng đậm mầu như hình dáng cây bút nằm xoải dài gác trên nghiên mực. Bóng dáng tháp bút di động theo ánh mặt trời để đến một giây phút khi vị trí tương quan giữa trái đất và mặt trời kết hợp, dần đưa đỉnh nhọn tháp bút chấm sâu vào giữa nghiên mực như động tác của người viết cầm bút chấm mực tạo nên một hình ảnh di chuyển linh động khiến khách bàng quang vãn cảnh cũng phải chú ý quan sát, thưởng lãm.  

     Tháp bút, nghiên mực là vật bất động nhưng người xưa đã biết dùng sự tuần hoàn của vũ trụ để lồng vật bất động vào một cảnh di động ngoạn mục, nhịp nhàng với thiên nhiên, với tạo hóa, hợp cùng luật xoay vần giữa trái đất, mặt trời.

     Qua hình ảnh này, chứng tỏ bậc cha ông ta xưa đã áp dụng sự hiểu biết về thiên văn, địa lý khi xây cất tượng đài trang trọng bao gồm nhiều ý nghĩa của văn học và nghệ thuật như một món qùa để lại cho những thế hệ kế tiếp thưởng lãm.

     Nếu không nghe lời ca, nghe chị bạn đặt câu hỏi về Tháp Bút có lẽ tôi cũng không chú ý đến di tích lịch sử này. Tự hỏi không biết Tháp Bút bây giờ có được bảo tồn như một thắng cảnh hay chỉ là chiếc “Tháp Bút chơ vơ” ẩn hiện sau khóm “liễu xanh vật vờ” như tình tiết nhắn nhủ của ca sĩ diễn tả lời ca, như cảnh người dân Hà Nội vật vờ trong cơn ngái ngủ dưới nắng chói chang, ngột ngạt trong những buổi trưa mùa hè?

     Tôi tự hỏi bởi vì có những người bạn sau chuyến về thăm Hà Nội không thấy ai nhắc tới “Tháp Bút” mà chỉ nói tới những dẫy phố tân trang, những khu du lịch tiện nghi, hấp dẫn đón đưa, những chốn vui chơi, thụ hưởng lịch lãm mời gọi!…    

     Đối với tôi, Hà Nội bây giờ đã qúa xa xôi về cả vật chất lẫn tinh thần. Rời bỏ Hà Nội ở tuổi còn thơ, hai chục năm sau lại bỏ Sàigòn tìm đến đất thanh bình, tự do này để rồi hiện tại đang là cả một nửa trái cầu cách biệt.  

     Thầm tính, thời gian xa Hà Nội dã trên năm mươi năm, rồi rời xa Sàigòn cũng đã trên ba mươi bẩy năm. Đôi khi có người hỏi tôi đã có lần nào về thăm lại Sài gòn, Hà Nội, câu trả lời vẫn là chưa một lần. Đức lang quân và tôi chưa hề nghĩ đến chuyện làm một chuyến trở về nhìn lại nơi xưa, chốn cũ mặc dù hiện tại điều kiện và phương tiện giao thông đã dễ dàng, nhưng nghĩ lại vẫn chưa phải là việc làm cần thiết.

     Dường như thời gian và khoảng cách hai nơi cùng những tang thương, mất mát ở qúa khứ đã làm phai nhạt phần nào nỗi bịn rịn, quyến luyến đến những nơi từng là chốn nương thân ngày cũ. Có lẽ vì vậy mà tôi vẫn cảm thấy dửng dưng khi một số bạn bè đi về kể lại những thay đổi của thành phố qua bộ mặt bên ngoài, thay đổi của con người qua sinh hoạt, tập quán hàng ngày.

     Nghe để biết vậy thôi, tốt hay xấu, tôi không dám góp lời vì đã không chung sống, không chứng kiến, không trải qua những thay đổi này để có một chút tưởng tượng, một tình cảm rung động nào cho những đổi thay hiện tại qua lời mấy người bạn kể lại.

 

jj

     Từ ngày mang nhãn hiệu “về hưu”, thỉnh thoảng một vài người bạn từ xa gọi điện thoại hỏi thăm, khi biết tôi đã cuốn gói về hưu, mấy cô nàng tỏ vẻ ngạc nhiên vẫn tưởng tôi chưa đến tuổi oan nghiệt này. Là bạn học cùng lớp ngày xưa nhưng khi khôn lớn mỗi đứa lưu lạc một phương, khi bắt liên lạc lại được thì tíu tít hàn huyên. Đã trải qua một thời gian dài không gặp, các nàng vẫn còn giữ hình ảnh ngày cũ trong trí nhớ, vẫn hình dung, tưởng tượng đến dáng dấp trẻ trung, nhỏ bé như xưa. Thầm nghĩ, ước gì mình vẫn còn được mang dáng dấp như các cô bạn tưởng tượng. Thời gian đã không cho mình trẻ mãi, bây giờ chỉ còn biết áp dụng câu “trẻ tại tâm” để tự an ủi vậy! 

     Mỗi khi nhắc dến hai chữ về hưu, khi nói chuyện ai cũng hỏi bây giờ nhàn rỗi, làm những gì cho hết ngày. Liên tục làm việc trên ba bốn chục năm, mấy ngày đầu của cuộc đời về hưu bỗng đưa đến cho tôi môt cảm giác thiếu thốn khác thường thế nào ấy. Quen dậy sớm mỗi buổi sáng trong nhiều năm như đã biến con người thành chiếc đồng hồ báo thức, cứ đến giờ là tỉnh dậy, đến khi chợt nhớ ra là mình đã nghỉ việc, lúc này mới mỉm cười tự chửa thẹn rồi kéo chăn tìm lại giấc ngủ dở dang.

     Bây giờ không còn phải dậy sớm, không phải lo lỡ chuyến xe đến sở, nhất là những buổi sáng sớm mùa đông mưa dầm dề lạnh lẽo. Nghĩ đến cảnh thiên hạ phải lặn lội trong cơn mưa lạnh, vội vã chen lấn nhau trên những chuyến xe công cộng trong khi mình vẫn nằm trong chăn ấm, nệm êm, lúc này mới thấy mình đã qua một khoảng thời gian dài vội vã trong cảnh mưu sinh mà quên cả thời gian để đến bây giờ mới thấy gía trị của cuộc đời nhàn rỗi, thụ hưởng cảm giác thích thú đầu tiên sau chuỗi ngày dài làm việc.

     Trước đây tôi thường nghe cảm tưởng mâu thuẫn của dăm ba người bạn nghỉ hưu, có người nói về hưu không biết làm gì cho hết ngày, vợ chồng quanh quẩn trong nhà nhìn nhau lại sinh tật khó tính. Người khác lại nói tưởng về hưu được nhàn rỗi không ngờ bận bịu hơn!

     Đành rằng mỗi người có một hoàn cảnh, một lối sống và ý nghĩ riêng tư. Qua mấy ngày đầu hưởng cảnh nhàn rỗi tôi bắt đầu chú ý đến cảnh bừa bộn, ngổn ngang trong mấy căn phòng, càng thu dọn càng thêm việc, lúc này tôi mới thấy trường hợp thứ hai đã rất đúng với tôi.

     Đức lang quân nhà tôi vẫn hàng ngày sáng lái xe đi, xế trưa lái xe về cho nên chúng tôi không có cảnh ngồi không nhìn nhau sinh chuyện như thiên hạ thường tưởng tượng, dọa dẫm. Chàng vốn có tật dậy sớm, kể cả những ngày nghỉ lễ và ngày cuối tuần. Có hỏi thì chàng trả lời với lời lẽ lý luận khác thường, nói rằng hàng ngày đi làm mất cả ngày, khi được nghỉ thì cũng phải dậy sớm để được tân hưởng từ sáng sớm đến chiều tối cho trọn vẹn ngày nghỉ!

     Lý luận như chàng nghe có vẻ phản nhân sinh qúa vì với tôi, ngày nghỉ để mình có dịp lười biếng, được ngủ muộn, được nghỉ ngơi để bồi dưỡng trí óc cùng cơ thể, bù cho những ngày trong tuần bận bịu, mệt mỏi với công việc trong khi chàng lại đi ngược với ý nghĩ hợp lý bình thưòng.

     Rồi cuộc sống vẫn thầm lặng trôi qua, tôi vẫn luôn vui chơi, yêu đời, vẫn đến với bạn bè khi gọi. Tuy nhiên mấy năm sau này cũng bớt đi phần nào, bạn bè cùng lứa tuổi đã lo xong phần gia thất cho lũ con nên không còn liên tục những buổi nhộn nhịp gặp nhau trong những buổi tiệc mừng như thời gian trước đây.

     Lo xong cho lũ con bây giờ lại đến lượt lo cho lũ cháu. Hình như chữ “Lo” vẫn quanh quẩn, bám chặt với đời sống mỗi người như một tật bẩm sinh, dù ở hoàn cảnh hay tuổi nào cũng không thoát khỏi! 

 

jjj

     Vừa nhắc đến chuyện chung vui họp mặt đột nhiên một hàng chữ nhấp nháy liên tục hiện trên màn ảnh báo cho tôi biết là có vài ba i-meo mới vừa tới. Đang do dự chưa biết mình viết những gì kế tiếp, gặp dịp để tạm quên những suy nghĩ cho bài viết, tôi nhẩy sang mạng lưới trời mở hộp thư xem đó là thư của những ai gửi tới mà hàng chử trên màn ảnh chập chờn liên tục như thúc giục thế này.

     Mở hộp thư, i-meo đầu là của ông chủ bút Đặc san KQ Nguyễn Qúi Chấn, nhẹ nhàng nhắc khéo tôi gửi bài viết cho số Đặc san phát hành nhân đêm Không gian hội ngộ vào đầu tháng mười. Có Đặc san tặng quan khách, hội viên và gia đình như một chút qùa ghi nhận tình thân đến chung vui hội ngộ hàng năm, như lời cám ơn nhắc nhở niềm vui tập thể.  

      Kế tiếp, i-meo của qúy quan F-5 gửi cho đức lang quân nhà tôi, gọi nhau họp đàn tại Dallas, Texas vào giữa tháng mười, chương trình ba ngày sinh hoạt hấp dẫn, mang chủ đề “Hạnh Ngộ Tình Cuối”. Phải chăng hàng năm qúy quan thay đổi nơi chốn tụ họp, bay khắp bốn phương mãi cũng đến ngày mỏi cánh để rồi đến lúc phải chấp nhận luật tạo hóa. Mong rằng đây chỉ là một chủ đề có tính cách tượng trưng cho tình cảm thân thiết đồng đội nhiều hơn là ý nghĩa của sự thật.

     Lại thêm i-meo của anh Nguyễn Đức Hiền gửi chung các bạn cùng khóa 63D, thông báo chương trình họp mặt kỷ niện năm mươi năm nhập ngũ của toàn thể các khóa gia nhập quân chủng Không Quân trong năm 1963, tại quận Cam vào đầu tháng bẩy năm tới, năm 2013. Được biết, năm 1963 có tới bẩy khóa nhập quân trường. Tất cả cùng nhau chọn một ngày họp mặt, hẹn gặp lại nhau sau cả nửa thế kỷ, chắc hẳn sẽ vui nhộn, náo nhiệt lắm.

     Tin tức sinh hoạt của qúy KQ khắp nơi liên tục và nhộn nhịp qúa, thân chúc qúy anh và gia đình mãi mãi cùng nhau chung vui, yêu đời.

 

jjjj

     Chưa kịp ra khỏi mạng lưới trời để trở về với bài viết dở dang thì điện thoại lại reo vang, đầu bên kia là anh Ngô Văn Kim, nhắc nhở tôi đừng quên buổi picnic vào ngày cuối tuần do Hội KQ Bắc Cali. tổ chức hàng năm. Anh Kim vẫn luôn gắn bó với những sinh hoạt của hội, mặc dù đã gửi thông báo và thư mời nhưng anh vẫn cẩn thận liên lạc nhắc nhở từng người. Mỗi năm có vài ba buổi họp mặt, chúng tôi không quên đâu anh Kim ơi, nhưng dù sao cũng xin cám ơn anh đã quan tâm nhắc nhở.

     Sinh hoạt hội liên tục, một phần nhờ anh thúc đẩy, một phần nhờ có ban chấp hành hiện tại, gồm qúy anh và qúy nàng dâu KQ trẻ với đầy thiện chí và nhiệt thành, lãnh nhận trách nhiệm điều hành.

     Mùa hè San Jose luôn tràn đầy nắng ấm, nắng ấm hâm nóng không gian vừa đủ để muôn loài thụ hưởng. Qua nhiều năm, ban chấp hành đã chọn một công viên khang trang, tiện nghi để làm nơi họp mặt ngoài trời. Có đủ sân cho các môn thể thao, có vườn trẻ để các em bé leo trèo, chạy nhẩy. Trước đây, những buổi picnic chỉ gồm có cha mẹ và đàn con, đến nay lại tăng thêm lũ cháu, thêm tiếng cười nói vui chơi, nhộn nhịp.

     Nhờ không khí ấm áp, buổi picnic hàng năm vẫn thu hút nhiều người hưởng ứng, ra công viên để hưởng không khí mùa hè, để vui chơi trong tình bằng hữu, nhâm nhi ly nước, miếng ăn trong niềm vui qua câu chuyện trao đổi.

     Bước vào khu pinic dành sẵn, người đầu tiên tôi gặp là chị Hồ Kim Hải. Vẫn với lời nói nhỏ nhẹ, ngọt ngào qua dăm ba câu thăm hỏi, chị ôm lấy tôi như đã từ lâu không gặp, cử chỉ thân thiện, từ tốn thật dễ thương. Thực ra, việc đầu tiên là ai nấy đều phải “trình diện” chị Hải, chị là người tiếp nhận và trông giữ hầu bao cho hội trong những buổi vui họp mặt như hôm nay.

     Nhìn đám đông vui nhộn quanh hai dẫy bàn thực phẩm, ông hội trưởng Nguyễn Mạnh Khang, hội phó Lâm Thành Mộng, tổng thư ký Hồ Kim Hải, trưởng ban tổ chức Trần Bá Kha đều tỏ vẻ thích thú, hài lòng với sự hiện diện hưởng ứng của hội viên và gia đình trong khi các nàng dâu KQ như chị Lệ Mẫn, chị Trần Bá Kha cùng dăm ba chị bạn đứng tiếp thức ăn cho từng thực khách. Chị Liên chạy qua lại xoay vần những bắp ngô trên mấy lò than nóng bỏng. Mùi thơm thịt nướng, mùi cháy lá ngô hợp lại, phảng phất dưới tàn cây tạo thành một hương vị hấp dẫn đánh thức con tì con vị của thực khách tham dự.

     Hàng năm, chị Nguyễn Tấn Phát tặng buổi picnic một con heo quay, góp cho phần ẩm thực thêm dồi dào, đậm đà. Chị còn rủ thêm một số bạn học tại trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ ngày xưa đến chung vui. Qua niềm vui bạn hữu, một chị bạn cũng góp vào một món rất đặc biệt do chính tay chị nấu. Những món ăn ngon và hấp dẫn qúa, bằng chứng là chỉ qua một thời gian ngắn cả con heo quay cùng món đặc biệt của hai chị được mọi người chiếu cố tận tình, không còn dấu vết. Món ăn ngon qúa, không nghe thấy ai đả động đến danh từ y học “cholesterol” thường được hoang mang loan truyền trong câu chuyện về thực phẩm. Xin thành thực cám ơn chị Phát và các bạn của chị. 

     Dưới bóng mát của những hàng cây ngập lá xanh tươi, ai nấy đều thoải mái ngồi thưởng thức bữa trưa đầy hương vị cùng tình bằng hữu qua những câu chuyện, tiếng cười trao đổi. Đôi khi tiếng reo hò, tiếng cười nói nhộn nhịp vọng lại từ mấy sân quần vợt, chứng tỏ cuộc so tài múa vợt, lượm banh của anh Đạt, anh Liệu, anh Khánh, anh Kha, anh Cơ có vẻ đầy vui nhộn, hào hứng.

     Gặp dịp vui đông đủ bạn hữu thân thiết, đức lang quân nhà tôi hớn hở chạy qua lại thăm hỏi mọi người như không muốn bỏ sót một ai. Nào là anh chị Nguyễn Hồng Tuyền, anh Nguyễn Mạnh Đức, anh chị Nguyễn Phú Chính, anh chị Nguyễn Đình Lộc, anh chị Nguyễn Ngọc Thức, Anh Nguyễn Văn Cử, anh chị Lê Văn Hà. Anh chị Hà cư ngụ vùng Sacramento, cách San Jose khoảng ba giờ lái xe nhưng anh chị luôn hiện diện trong những buổi họp mặt, hội ngộ hàng năm. Dường như đã gặp đủ mọi người, chàng vào bàn ngồi nói chuyện với một vị khách lạ. Trên đường về, chàng cho tôi biết vị khách lạ đó là cựu Tham Mưu Trưởng KQ, Chuẩn tướng Võ Dinh, ông mới dọn về San Jose, lần đầu tiên đến chung vui họp mặt.

     Thấy tôi còn đang lưỡng lự chưa tìm chỗ ngồi, nàng Thanh Huệ kéo tôi ngồi cạnh, nhận ra những người chung bàn là những khuôn mặt quen thuộc như anh chị Nguyễn Công Bắc, anh chị Nguyễn Tiến Xương, anh Đỗ Ngọc Ẩn, anh Đàm Quang Khánh. Ngồi cạnh chị Xương tôi không lo đói vì thỉnh thoảng chị lại đi lấy thêm thực phẩm tiếp tế cho cả bàn. Cám ơn chị Xương, đôi khi tôi thấy chị mải lo giữ phần cho bạn mà quên phần mình đấy.

     Dưới bóng mát của hàng cây, ngồi thưởng thức vị ngọt ngào của dưa hấu sau bữa trưa đậm đà hợp khẩu vị. Lúc này sinh hoạt như bắt đầu nhộn nhịp trở lại, dường như ai nấy cũng muốn đứng dậy vươn vai, tứ chi vận chuyển, bước qua lại giúp mạch máu lưu thông đều hòa

     Chợt giọng nói của ông hội phó ngoại vụ Nguyễn Thanh Sơn từ máy phóng thanh mời qúy nương tuổi trên sáu mươi và qúy chàng tuổi dưới sáu mươi dự cuộc vui kéo giây hai phe nam nữ. Thoạt nghe cũng thấy lạ tai, phải chăng anh Sơn sợ phe mấy ông sẽ thua mấy nàng hay sao mà lại chọn các trai trẻ dưới sáu mươi để tranh sức với các nàng trên sáu mươi?

     Phe nữ, con cháu Trưng, Triệu đâu có sợ ai, lập tức đứng lên nhận lời thách thức. Chị Lộc, chị Bắc, chị Thanh Huệ, chị Xương, chị Cầu, chị Nghiêu, chị Hạnh Khang bước ra sẵn sàng cầm giây thử sức. Thấy vui, tôi cũng nhào theo các chị nhập cuộc.

     Mới đầu bên nữ chúng tôi còn đủ sức giữ vị trí, nhưng rồi sợi giây kéo dần về bên nam. Nhưng đột nhiên sợi giây bắt đầu di chuyển ngược lại phía nữ như có phép lạ giúp sức, tiếng cười nói, la hét inh ỏi của người trong cuộc cùng người đứng ngoài như khích lệ, cổ võ. Khi phe nam không giữ nổi vị trí, trọng tài trao phần thắng cho phe nữ.

     Không có phép lạ nào giúp chúng tôi đâu, một anh bên phe nam thấy phe nữ gần thua, anh quay lưng   thẳng tay kéo phe nam về phía nữ vì vậy mấy chàng trai trẻ bị thua oan! Tôi mừng hụt vì tưởng rằng mấy nàng trên sáu chục còn hung hăng, quyết tâm dành phần thắng. Thắng bại ở đây không có ý nghĩa gì, chỉ là một cách để chấm dứt cuộc vui trong tình bằng hữu.

     Trò chơi kéo giây như anh Sơn bày ra lần này khác lạ so với những lần trước, có lồng một chút khôi hài tế nhị, tạo thêm nụ cười cho niềm vui nhộn ngày hè.              

     Nhưng rồi cuộc vui nào cũng qua đi, ai nấy lại trở về với đời sống riêng tư. Mùa hè gần qua, mùa thu sắp tới, lũ con cháu lại sửa soạn tựu trường.

     Từng người nắm chặt tay nhau nói lời tạm biệt, hẹn gặp nhau những lần họp mặt tới.

     Cầu mong tất cả mọi người bình yên, con cháu học hành tấn tới, thành đạt để rồi lại hẹn gặp nhau trong những lần chung vui, tụ họp kế tiếp.

 

Cuối Hạ 2012

Nhã Dung