Hoa Nở Trong Tim
Người nghèo nhất không
phải là người thiếu cơm ăn áo mặc mà là người sống một cuộc đời… không có ước
mơ. Khi hoàn cảnh, đời sống thay đổi thì ước mơ cũng có thể đổi thay.
Ngày còn bé, khi ngắm
mưa rơi, xếp thuyền giấy thả trôi theo dòng nước, cô bé ước mơ có ngày thuyền
trôi ra biển lớn. Khi trở thành một thiếu nữ, biết yêu đương, cô mơ cho thuyền
cô không gặp sóng dữ và sẽ cập vào một bến an bình. Khi ra đời thường thì…
thiếu cái gì, ta mơ cái ấy.
Người nghèo khó, nợ
nần vây bủa thường mơ… trúng số, kẻ bất hạnh trong hôn nhân thì đắp xây một…
lâu đài tình ái, người đau khổ vì bệnh nan y thì mơ có một sức khỏe, đơn giản
như người bình thường… thậm chí kẻ không nhà, đói cơm, giấc mơ đơn giản có khi
chỉ là được ăn một bữa cơm no nê với nồi thịt kho mặn.
Với một công việc làm
ăn tương đối ổn định, như ý, tôi quan niệm chỉ có những người thất nghiệp mới
hay bỏ tiền ra để mua vé số, với ước mơ chỉ đưa ra một đồng và may mắn lấy lại
được cả triệu đồng. Bởi vậy ít khi nào tôi mua vé số, vậy mà… tôi vẫn mơ được
trúng số độc đắc! Giấc mơ bắt đầu từ một ngày đầu Xuân…
Chúng tôi có chương
trình viếng thăm và tặng quà cho một vị cao niên. Cụ bà hơn chín mươi tuổi, chỉ
có một ông con trai duy nhất đã xấp xỉ bảy mươi. Những ngày cuối đời, sức khỏe
cụ không được ổn định nên gia đình sắp xếp để cụ vào một viện dưỡng lão, nơi có
y tá có bác sĩ sẵn sàng chăm sóc cụ khi cần thiết.
Chiếc xe chạy vòng vèo
qua vài khoảng rừng, hàng thông cao hai bên đường rì rào trong gió, khung cảnh
thật êm đềm. Sau đó, xe dừng lại trước một căn nhà với khoảng sân bằng phẳng và
rộng rãi, vài khóm hoa cánh mỏng, nhiều màu rực rỡ như làm khung cảnh nơi này
vui hơn. Ánh nắng ban mai chiếu xuyên qua màn mây mỏng, rơi trên cành cây, để
lại những bóng nắng nhảy múa lung linh trên nền cỏ.
Việc đầu tiên khi bước
vào văn phòng là ghi tên họ người được thăm. Cô y tá làm việc rất vui vẻ,
chuyện trò ríu rít. Hành lang dài và rộng đã có vài cụ ông, cụ bà được gia đình
đến thăm đẩy xe lăn ra phía ngoài, những bàn tay nhăn nheo đưa lên vẫy vẫy chào
chúng tôi.
Người sắp được chúng
tôi thăm hôm nay là cụ bà Tâm, cụ đã quá già không còn đi lại được, chỉ nằm tại
chỗ và có y tá chăm nom thường xuyên nên chúng tôi sẽ đến thăm cụ ngay tại
giường. Chúng tôi theo chân bác Võ là con trai cụ, nay đã gần bảy mươi tuổi
nhưng rất phương phi. Vừa đi bác vừa tâm sự, cách đây mấy năm, ngày đưa bà cụ
vào viện thật là là một quyết định đau lòng. Một mẹ già duy nhất mà không chăm
nom được, phải để cụ vào sống nơi viện dưỡng lão. Thiên hạ dị nghị, bạn bè bàn
tán lao xao chuyện nhà bác.
Không ai hiểu cho hoàn
cảnh ở xứ sở này, nhưng bác đã suy nghĩ và bàn bạc trong gia đình. Cho đến lúc
này, bác nói, quyết định này không hề làm bác ân hận. Bởi cái viện dưỡng lão
này ở gần nhà bác, mỗi ngày đi làm về bác đều có thể ghé qua thăm mẹ già, chăm
sóc thường xuyên thì đã có những người điều dưỡng và y tá bác sĩ phụ trách.
Đến phòng bà cụ, đã thấy có một cô y tá đang dỗ dành để thay tã
cho cụ. Bà cụ hơn chín mươi mà da dẻ hồng hào, cả hàm răng chẳng còn cái nào
nên khi cụ nói phát ra những âm như thều thào. Tôi nhìn cụ và nghĩ chắc ngày
còn trẻ cụ cũng là một phụ nữ sắc nước hương trời. Bà cụ nhìn người con trai
đến thăm mình, ánh mắt như reo vui. Cô y tá làm xong nhiệm vụ thì quay sang nói
chuyện với chúng tôi, bảo rằng cụ bà ngoan lắm, không quấy phá hoặc làm đổ thức
ăn như những cụ khác.
Cụ Tâm đưa cánh tay
khẳng khiu, bàn tay nhăn nheo vuốt mặt bác Võ, cụ nựng nịu bác Võ như nựng một
đứa trẻ con vài tuổi. Miệng cười tươi, mắt hấp háy. bác Võ kề khuôn mặt cũng
già nua của mình vào lòng mẹ. Tóc bác Võ bạc phơ, cụ bà Tâm thì mái đầu lưa
thưa trắng xóa. Năm tháng đã làm cả hai mẹ con da nhăn tóc bạc nhưng hình như
trong lòng cụ Tâm, bác Võ mãi mãi là cậu con trai thơ dại cần được chiều
chuộng, vỗ về. Tôi nhìn hình ảnh hai mẹ con mà lòng thấy bùi ngùi, cảm động.
Chúng tôi tặng cụ món
quà từ tấm lòng của những người đồng hương. Vừa thăm viếng, chúng tôi vừa bàn
tán, trao đổi về cách giải quyết cuộc đời mình khi lớn tuổi. Tôi đã nhìn thấy
tận mắt cụ Tâm tuy không còn tự chủ trong mọi sinh hoạt thường ngày được, nhưng
sức khỏe cụ thật tốt, với niềm vui hiện rõ khi ông con trai ghé thăm.
Bước qua khu nhà ăn,
khu giải trí, qua căn phòng đọc sách, tôi thấy một vài cụ tay cầm sách mà ngủ
gục trông thật tội nghiệp. Các cô y tá, các anh chị làm thiện nguyện nơi đây
trình bày cho chúng tôi biết thỉnh thoảng cũng có vài thảm cảnh của những cụ
già người Việt Nam không hề có con cháu đến thăm.
Nơi đây không có nhân
viên người Việt phục vụ nên các cụ thèm nói chuyện, thèm nghe ngôn ngữ mẹ đẻ.
Không ai thăm viếng thì các cụ thẫn thờ cả ngày này tháng nọ, dần dần sinh ra
lảm nhảm một mình như kẻ mất trí mặc dù trong phòng của các cụ, hình ảnh và
bằng cấp của đám con cháu treo nhan nhản.
Lúc chưa đến viếng nhà
dưỡng lão tôi thường có ác cảm và hay phản đối việc con cái đem cha mẹ già vào
nơi này. Giờ đây, tôi biết rằng suy nghĩ của tôi chưa thấu đáo. Thật sự, đời
sống ở xứ này chịu quá nhiều áp lực về công việc làm ăn. Để đáp ứng nhu cầu vật
chất gọi là thiên đường của sự hưởng thụ nơi này, người ta phải đánh đổi bằng
những món nợ khổng lồ mà chúng ta thường nghe là “không mắc nợ, không phải
người Mỹ”.
Họ đánh đổi sự mất mát
tình cảm, sự tan vỡ hạnh phúc và có khi luôn cả sinh mạng. Những tấm gương hiếu
thảo, hình ảnh đàn con ngoan “đứa lo cơm cháo, đứa hầu thuốc men”… chắc không
có chỗ đứng trong thời khóa biểu của những con người thời hiện đại này.
Tôi đã nhận ra, viện
dưỡng lão là nơi đáp ứng những lỗ hổng mà con người không thể lấp đầy. Chỉ cần
nhấn một cái nút là y tá, bác sĩ, điều dưỡng sẽ có mặt ngay, đáp ứng mọi yêu
cầu của các cụ. Đó là nơi giúp cho người già về mọi sinh hoạt, bù đắp những thiếu
sót mà con cháu không có thời gian hoàn thiện.
Bên cạnh đó chúng ta
nên nhìn thấy thực tế rất đau lòng là thuốc men, máy móc và các dụng cụ y khoa
tối tân chỉ để phát hiện ra những tổn thương trong cơ thể nhưng không thể chữa
trị những đớn đau tinh thần, những khắc khoải triền miên của lòng khao khát
được yêu thương. Bởi thế, các cụ không thể nào nuốt trôi được những mâm thức ăn
dư thừa năng lượng nhưng thiếu vắng tình thương.
Trong cái xã hội nhỏ
bé này, tôi còn nhận ra được một điều là niềm hãnh diện của bậc cha mẹ ở nơi
đây được đong đếm bằng những đợt ra vào, viếng thăm của đám con cháu chứ không
phải qua những bằng cấp bác sĩ, tiến sĩ đang treo trên tường. Người già Việt
Nam ở đây không thể nào chịu đựng nổi sự trống vắng, cô đơn khi không có sự đồng
cảm giữa những con người xa lạ và ngôn ngữ bất đồng nên lúc nào các cụ cũng
khẩn khoản muốn về nhà.
Tôi miên man nghĩ về
cái viện dưỡng lão đặc biệt cho những cụ già người Việt Nam.
***
Một lần, anh hỏi tôi:
– Anh muốn đưa em đến
thăm một Nursing home …
– Viện dưỡng lão hả?
– Không, đây không hẳn
là một viện dưỡng lão mà là một nơi chăm sóc đặc biệt cho những người bệnh bất
toại, nơi người vợ quá cố của anh đã trải qua những tháng ngày dài đằng đẵng
suốt năm năm, trước khi về với Chúa.
Tôi mau mắn đồng ý,
không cần suy nghĩ.
Chạy dọc theo đường
Holcombridge, ngay trong thành phố chừng hai dặm, quanh qua một con đường nhỏ
khác, Nursing home nằm trong khung cảnh âm u, buồn tẻ gần cuối đường.
Khi anh bước vào thì
người y tá trực đã lớn tuổi, hấp háy đôi mắt xám xanh, nhìn ra anh, bà giang
rộng cánh tay ôm lấy anh:
– Trời ơi, lâu quá,
tôi không được gặp ông. Ông khỏe không?
– Cám ơn bà, tôi vẫn
khỏe.
Anh quay sang giới
thiệu tôi là bạn gái. Người y tá già chào đón tôi rất nồng nhiệt, bà dài dòng
kể lể:
– Ông ấy dễ thương
lắm, tôi chưa thấy ai chăm sóc người thân tốt như ông ấy. Bà vợ ông ấy trước
khi qua đời nằm ở đây mấy năm mà không ngày nào ông ấy vắng mặt. Chúng tôi rất
khâm phục ông ta, ông ấy là người có trái tim nồng ấm.
Anh xin phép được đưa
tôi đi vòng vòng sau khi ghi tên vào cuốn sổ ở phòng trực. Vừa đi anh vừa giới
thiệu:
– Đây là phòng bà ấy
nằm lúc xưa, đó, cái TV kia là ở nhà anh mang xuống để lại đây cho bà xem, TV
luôn mở những chương trình bà thích, dù bà nằm mê man, trí óc không hoạt động,
cơ thể sống một đời sống thực vật, anh vẫn xem như bà hiểu biết hết. Người ta
bảo đó là một cách để người bịnh gần gũi với đời sống bình thường. Còn đây là
phòng khách, nơi này anh thường ngồi hút điếu thuốc, thư giãn trước khi ra về.
Chúng tôi đi theo hành
lang, dẫn vào những phòng bệnh, tôi ghé mắt nhìn vào, mỗi phòng có hai giường.
Đa số là những người bị tai biến, tê liệt toàn thân, mất cả trí nhớ. Những cụ
ông, cụ bà người Á châu thì nhìn còn tạm được, nhìn sang những người gốc bản
xứ, gốc châu Âu khi già hay bệnh hoạn thấy còn kinh khiếp hơn. Họ như những cái
xác vô hồn, nhợt nhạt, không có sinh khí.
Nhìn họ không ai có
thể tưởng tượng đó là những người cũng đã một thời hoạt động sôi nổi ở nhiều
lãnh vực. Có thể là một nhà khoa học, một thương gia hay một nghệ sĩ đi Bắc về
Nam. Họ cũng từng có một mái ấm như bao nhiêu người khác, cũng cơ ngơi, cũng bề
thế. Vậy mà bây giờ… đời sống của họ buộc phải gắn liền với cánh cửa cuộc đời
qua những sợi dây truyền thuốc, truyền thức ăn, truyền oxy chằng chịt… Nếu ở
viện dưỡng lão hôm trước tôi ghé qua vốn đã thưa thớt người thăm viếng thì nơi
đây càng vắng vẻ hơn. Lác đác chỉ có mấy người phục vụ, y tá, vài ba bác sĩ
lặng lẽ làm nhiệm vụ của mình. Buổi chiều nơi đây sao mà đìu hiu quá sức.
Tôi nín thở bước ra
vườn hoa, anh vẫn huyên thuyên kể cho tôi nghe về những ngày anh nuôi vợ ở đây.
Khung cảnh này, những nhân viên ở đây đều quá quen thuộc với anh. Ánh mắt anh
chăm chú nhìn từng khung cửa sổ, từng góc phòng, từng cái kệ chứa nhiều loại
dụng cụ y khoa… mọi thứ đối với anh đều thân thiết, gần gũi. Cuối cùng anh nói
một câu:
– Đã từng vào đây,
thấy những cảnh này mình mới thấy cuộc đời sao vô thường quá. Một con người mới
hôm qua đang còn hoạt động năng nổ, nói cười huyên thuyên, chỉ một cơn “stroke”
là thành kẻ vô dụng, bất lực, mất hết tri giác. Cho nên… hơn thua mà làm gì,
phải không em?
Tôi nắm bàn tay anh
không nói gì, giọng anh bùi ngùi:
– Mẹ của mấy đứa con
anh, sau một lần bị choáng thì nằm luôn gần năm năm trời, mất trí nhớ luôn cho
đến ngày lìa đời.
Anh thở dài sau câu
nói. Rồi anh kể:
– Ngày anh có điện
thoại từ cô y tá báo tin vợ anh ngừng thở, lúc đó anh chỉ mới vừa thăm bà ra,
đang trên đường về. Mặc dầu năm năm trời bà đã phải tồn tại như người thực vật,
ra đi là một giải thoát êm đềm cho thân xác bà, nhưng anh cũng đau lòng lắm.
Chỉ một việc gọi điện thoại báo tin cho mấy đứa con biết là mẹ chúng nó mất
rồi, vậy mà… anh bối rối, phải bấm tới bấm lui hoài, lâu lắc.
Sau đó anh vội vàng
lái xe về nhà để lấy chiếc nhẫn cưới, tự tay anh đeo vào cho bà. Ngón tay không
còn sự sống, khô khan queo quắt nên chiếc nhẫn chẳng còn vừa vặn nữa, nhưng anh
muốn vậy. Hơn ba mươi năm làm vợ anh, đến ngày bà ra đi vĩnh viễn, anh muốn bà
lúc nào cũng có cảm giác là anh đang ở bên cạnh.
Đây là lần đầu tiên
tôi nghe anh tâm sự về những chuyện này nên tôi chăm chú lắm. Anh quay sang
nhìn tôi và nhỏ nhẹ:
– Anh… thật cám ơn em
đã cùng đi đến đây với anh hôm nay. Em mau mắn, không thắc mắc, không phàn nàn,
cũng chẳng hỏi đến đây làm gì, thăm ai…
Anh nói và cứ thấy tôi
ngồi yên nên ngưng lại:
– Em… sao vậy, mệt hả?
Tôi nhìn anh ngập
ngừng:
– Em… chỉ mong anh
thương em bằng một nửa người đã nằm xuống là quá đủ rồi.
Anh lặng yên, chỉ nhìn
tôi mà không nói. Một ngày cuối tuần của chúng tôi qua nhanh với những san sẻ
nơi Nursing home này. Tôi chợt nghiệm ra thêm một lần nữa về ý niệm đời sống
quả thật quá phù du như lời của một bài hát mà tôi rất thích nghe… Hãy
nói về cuộc đời, khi tôi không còn nữa, sẽ lấy được những gì, về bên kia thế
giới, ngoài trống vắng mà thôi… (Thơ Du Tử Lê nhạc Anh Bằng).
Sau chuyến đi lần này,
tôi gọi cho đứa bạn thân, tên Thu Hiền, kể về cả hai chuyến đi. Một viện dưỡng
lão chăm sóc các cụ già còn tương đối “yêu đời” và một Nursing home chuyên chăm
sóc những người bệnh… đủ loại. Tôi nói, đó là hai ngôi nhà tương lai mà chúng
tôi mai này sẽ đuợc định cư. Thu Hiền nghe tôi nói nó than phiền:
– Mi ơi, đừng bi quan
quá, đừng nghĩ đến một ngày phải vào Nursing home, vô phước quá. Mi với ta đều
chỉ có một đứa con gái, mai này mình rủ nhau vô viện dưỡng lão ở chung cho vui.
Thu Hiền cũng rất đồng
ý về mộng ước rất thực tế của tôi. Để tạo điều kiện đem lại một quãng đời an
vui cho những người Việt cao niên sống xa quê cha đất tổ, nơi không cùng phong
tục tập quán và bất đồng ngôn ngữ, tôi mơ sẽ có đủ khả năng, điều kiện để xây
dựng một Viện Chăm Sóc Đặc Biệt cho những cụ già người Việt Nam.
Tôi sẽ mướn y tá, bác
sĩ, chuyên viên đều là người Việt, hoặc ít ra cũng phải biết nói tiếng Việt.
Tôi sẽ cho xây hai khu nhà ở có vườn tược y hệt khung cảnh Việt Nam, quê hương
tôi. Một bên dành riêng cho các cụ già còn tương đối khỏe và tỉnh táo, một bên
chuyên chăm sóc những cụ đã bại liệt hoặc mất trí nhớ.
Thu Hiền vui vẻ chấp
thuận liền, con nhỏ còn nhắc nhở tôi nên tìm một khu đất ở phía Nam Atlanta,
giáp giới với phía Bắc của Florida để mai này vợ chồng nó sẽ dễ dàng lê bước
tới trong những ngày tuổi già sức yếu. Hai đứa cười ha hả qua điện thoại. Thu
Hiền còn nhắc nhở tôi phải mướn những người nấu nướng biết nấu thức ăn Việt
Nam, tôi đồng ý hết, với điều kiện… tôi phải được trúng số độc đắc.
Hai ba hôm, cuối tuần,
Thu Hiền lại gọi tôi hỏi có nhớ mua vé số không? Việc xây dựng tới đâu rồi? Con
nhỏ làm tôi cũng lên tinh thần dù tuần nào tôi cũng hai lần dò vé số rồi lại
vất vào thùng rác.
Ngày xưa, hơn bốn mươi
năm về trước, Martin Luther King, một mục sư, một tiến sĩ, một người dân da đen
đại diện cho tầng lớp những người da đen của thành phố Atlanta đã từng có bài
diễn thuyết ở công trường Lincoln tận thủ đô Washington nổi tiếng. Bài hùng
biện như một lời tuyên ngôn về nhân quyền, đã đi vào lịch sử nước Mỹ, “Tôi
có một ước mơ…”. Giấc mơ của ông sau đó đã trở thành sự thật với việc thay
đổi số phận, mang lại sự bình đẳng cho những người da đen tại Mỹ. Ngày nay, tôi
cũng có một giấc mơ …
Ước mơ theo tôi mỗi
ngày, mỗi tháng, mỗi năm. Ngôi nhà dưỡng lão trong ước mơ của tôi đã thật hoàn
chỉnh như ý. Ngôi nhà có lối kiến trúc Việt Nam giữa một khu phố ở phía Nam
Atlanta, gần tiểu bang Florida, đẹp và thoáng mát. Có những hàng dừa nghiêng
nghiêng bên hồ nước, có cái sân be bé trồng rau cải, bí bầu, giàn mướp đầy hoa
vàng dập dìu những chú ong ve vãn.
Mỗi ngày trên đoạn
đường lái xe đi làm về, buổi chiều thường bị kẹt xe, tôi thư giãn bằng cách thả
hồn mình theo giấc mơ, ánh mắt đau đáu của những ông bà cụ nhìn ra cổng chờ
hình bóng đứa con vào thăm hướng theo tôi, thôi thúc tôi. Tôi hình dung ra hình
ảnh những đôi vợ chồng trẻ, cuối tuần đưa con cháu vào đây thăm ông bà, mái đầu
xanh bên cạnh đầu tóc bạc. Niềm vui như trọn vẹn trong từng nụ cười, ánh mắt.
Ngôi nhà tương lai của chúng tôi mang lại hạnh phúc, sự yên lòng cho cả hai thế
hệ.
Tôi nhớ có đọc ở đâu
đó câu ví von, “Ước mơ là hoa nở trong tim”
Ước gì… tôi trúng số
độc đắc để những đóa hoa nở trong tim tôi biến thành sự thật.
Nguyễn Diệu Anh Trinh