Thiếu nữ Việt Nam

Thiếu nữ Việt Nam
quá dễ thương

Thursday, October 27, 2022

Đò Chiều - Ý Linh

 Click Vào Đây - Nhạc phẩm Đò Chiều /Ca sĩ Ý Linh

Sunday, October 23, 2022

Kể Chuyện Trong Đêm - Hoàng Hải

 Click Vào Đây - Nhạc phẩm Kể Chuyện Trong Đêm/Ca sĩ Hoàng Hải

Thursday, October 20, 2022

Chuyện ngắn Lá Số Tử Vi - Phạm Thành Châu


Tôi nhận được email của bồ tèo KQ Lê Phước Khương, có đính kèm bài viết Lá Số Tử Vi, tôi định đọc lướt qua rồi tôi ngũ trưa. Càng đọc tôi càng sa lầy, lời văn dí dỏm và lối tỏ tình tán gái của anh chàng Đốc Sự nầy làm tôi sa lầy! tth 

LÁ SỐ TỬ VI

         Ông nội tôi là người cựu trào. Sách chữ nho ông để đầy một tủ. Ông là người nghiện sách nên suốt ngày cầm quyển sách trên tay. Khi về hưu, ông tôi làm thầy thuốc nam, thuốc bắc kiêm cố vấn cho bà con chòm xóm trong các vụ quan hôn tang tế. Ngay cả khi sinh con, họ cũng đến nhờ ông tôi một lá số để biết tương lai đứa bé ra sao? Dĩ nhiên con cháu trong nhà, ông tôi đều chấm cho mỗi người một lá số, hễ người nào gặp một biến cố gì lớn trong đời, ông tôi lại đem lá số đó ra chứng minh. Ngay cả chuyện bố tôi mất tích, ông tôi cũng đã phân tích sẵn trong lá số của bố tôi nhưng không nói ra trước mà thôi. Bố tôi là con út của ông tôi, tôi lại là con út của bố tôi, là đứa cháu trai nhỏ nhất trong gia đình nên trong nhà, tôi được coi như ông hoàng con, muốn gì được nấy. Thời Pháp thuộc, bố tôi làm “Jeunesse”, là làm việc làng nhàng gì đó ở ty thanh niên, thể thao của thị xã. Đến thời kháng chiến chống Pháp, bố tôi theo kháng chiến và mất tích. Khi kháng chiến bùng nổ thì mọi người phải tiêu thổ và tản cư về vùng nông thôn, ít lâu sau hồi cư về lại thành phố. Đó là một thị trấn miền biển, cách Nha Trang không xa lắm. Khi lên trung học, tôi ra Nha Trang học đệ Nhị và đệ Nhất trường Võ Tánh, vì thị trấn tôi ở không có trường trung học đệ nhị cấp.

         Trở lại cái lá số của tôi, ông tôi chấm rất kỹ, nhưng hình như có điều gì khác lạ nên thỉnh thoảng ông lại đem ra chiêm nghiệm, rồi giở sách ra nghiên cứu với vẻ trầm ngâm, suy tư lung lắm. Hễ nghe ai có tài chấm tử vi thì ông tôi lại đem lá số của tôi, tìm đến, nhờ xem giùm, rồi hai người lại bàn cãi, lý luận rất sôi nổi nhưng rốt cuộc cũng chịu thua, không biết có trục trặc ở chỗ nào mà tìm không ra?! Sở dĩ tôi biết được như thế là vì mỗi lần có bạn bè đến, khi bàn chuyện sách vở đông tây, kim cổ, ông tôi thường đem lá số của tôi ra làm đề tài về sự huyền bí của văn minh cổ của người Tàu. Tôi vốn không tin ở số mạng nên chẳng bận tâm.

         Đến năm tôi lên trung học thì ông tôi đã trên tám mươi, tuy là người tri thiên mệnh, nhưng ông tôi vẫn bồn chồn, ưu tư cho thằng cháu út, nên một hôm, ông gọi riêng tôi và bảo.
- Ông đã chấm cho con một lá số, theo như lá số, sau nầy, con có thể làm đến nhất phẩm triều đình, xưa gọi là tể tướng, tướng quốc, nay thì tệ ra cũng làm thủ tướng chính phủ, nhưng ông vẫn thấy có sự bất thường nào đó trong lá số?!

Tôi đáp cho vui lòng ông tôi.
- Không thủ tướng thì bộ trưởng cũng được, ông đừng lo cho con.

 Ông tôi cười.
- Người ta nói, số phận an bài, đâu có kèo nài, thêm bớt được.
- Như vậy tương lai của con ra sao?

 Ông tôi trầm ngâm.
- Cái số của con thì luôn luôn được may mắn, đi thi là phải đậu, có dịp là làm lớn ngay, không phải leo lên từng cấp bậc một. Giống như thời Chiến Quốc bên Tàu, mấy ông nho sĩ, từ cùng đinh nhảy lên tướng quốc vậy. Nhưng lá số của con có điểm mờ ảo nào đó mà ông vẫn chưa tìm ra. Dù sao thì cổ nhân có dạy “Đức năng thắng số” sau nầy, con nên nhớ, phải cố mà giữ cho vững cái đạo của người quân tử...

 Tôi tò mò.
- Con thấy, chỉ cần học giỏi là làm lớn. Phải không ông?

 Ông tôi lại cười.
- Người xưa nói rằng “Nhất mệnh, nhì vận, tam âm công, tứ phong thổ, ngũ độc thư”...Ý là số phận con người còn phụ thuộc rất nhiều vào mồ mả và phước đức ông bà, tổ tiên để lại, chứ còn chuyện học hành, cố cho lắm mà không gặp thời vận thì cũng chỉ là tên cuồng nho, mọt sách mà thôi. Xưa nay có biết bao người dốt mà làm nên sự nghiệp.

Chuyện dốt mà làm lớn, sau nầy tôi mới thấy, nhưng lúc đó tôi không tin, nhưng tôi vẫn hỏi để tỏ vẻ chú ý lời ông tôi dạy bảo.
- Vậy nhà mình có âm công phong thổ gì không ông?

Ông tôi có vẻ hào hứng lắm.
- Về mục âm công, phong thổ thì ông đang tiến hành đây. Ông đã tìm được một cuộc đất rất tốt. Ông đã xây sẵn một sinh phần (huyệt mộ), hễ ông nhắm mắt thì đem quan tài đến đó, bỏ xuống, lấp đất lại là xong, và cứ thế mà chờ cho đến khi mộ ông kết phát...

Mấy hôm sau, ông tôi dẫn tôi đi xem cuộc đất, là nơi ông sẽ yên giấc ngàn thu. Huyệt mộ nằm trên một sườn đồi, hướng ra biển. Ông tôi rất vui khi giải thích cho thằng cháu nội sáng giá của ông nghe nào long chầu, hổ phục ra sao, đặt biệt, huyệt mộ nằm ngay hàm của con rồng, chỉ chờ bão tố hoặc sóng thần, nước tràn lên, đất sẽ sụp lỡ, đổ ụp lên mộ, vậy là coi như con rồng đã ngậm miệng lại, lúc đó, con cháu mặc sức mà phát vương, phát tướng. Tôi làm như chăm chú và thích thú lắm để ông tôi vui lòng chứ sự tin tưởng chẳng có bao nhiêu.

Từ nhỏ đến lớn, việc dạy dỗ, học hành của anh chị em tôi trong nhà đều do ông tôi lo. Mẹ tôi phải buôn bán, làm ăn, không có thì giờ, vả lại bà rất thương yêu, chìu chuộng chúng tôi, chẳng nặng lời bao giờ nên khi ông tôi mất thì tôi như ngựa không cương, mặc sức leo lổng, chẳng ai quản lý được cả. Đi học về là vất sách vở, nhào ra sân đá banh, đá banh chán, xuống sông tắm. Buổi tối, ăn xong là xách cây đàn guita đến nhà mấy đứa bạn hát hò đến khuya mới về nhà, lăn ra ngủ. Đến khi đi thi tú tài một thì trong bụng tôi không có một chữ để làm “hành trang ứng thí”. Sách vở, từ đầu niên học cho đến cuối năm, bài nào tôi cũng thấy mới tinh!

Con người khi gặp khó khăn, không biết giải quyết cách nào mới nghĩ đến những đấng vô hình, năn nỉ cầu xin quí vị đó cứu giúp. Tôi tuy không tin những chuyện mơ hồ, nhưng sẵn có lá số tử vi mà ông tôi chấm cho nên tôi giao trách nhiệm thi cử cho ông tôi đảm trách, dù ông tôi không còn trên cõi đời nầy nữa. Tôi vẫn tiếp tục lười biếng, tiếp tục ca hát một cách vô tư như con “Ve sầu kêu ve ve, suốt mùa hè...” trong thơ ngụ ngôn của ông La Fontaine. Nhưng đến nhà bạn bè thì đứa nào cũng bận học thi và cha mẹ chúng thường đuổi khéo tôi, nên tôi về nhà hát một mình, đi cà lơ thất thểu ngoài đường phố, đến khuya, về nhà lăn ra ngủ...

Thực tâm, tôi cũng muốn học như bạn bè, nhưng bài nhiều quá, học sao cho xuể? Thế là tôi đem tất cả sách vở, tài liệu để lên bàn thờ ông nội tôi, thắp nhang rồi quì xuống, long trọng khấn vái “Ông nội chỉ cho con bài nào sẽ ra trong đề thi, con không có thì giờ học hết”.

 Khi ngẩn lên, nhìn ảnh ông tôi, quả nhiên tôi thấy hình như ông tôi mỉm cười, vậy là tôi yên tâm. Mỗi môn học, tôi lấy quyển sách hay quyển vở, vái ông tôi mấy vái và giở ra, độ năm bài, theo kiểu tình cờ và tôi chỉ học có năm bài đó thôi. Môn học nào tôi cũng làm như thế. Vậy mà đi thi, tôi trúng tủ, đậu bình thứ. Bạn bè thán phục. Chúng biết tôi đã dốt lại lười, mà đậu bình thứ, trong khi có nhiều đứa thức khuya dậy sớm, học ngày, học đêm, mặt mũi xanh lè vì mất ngủ mà vẫn rớt!?

Chúng thắc mắc, tôi phét lác.
- Sang năm, tú tài hai, tao sẽ đậu tối ưu cho tụi bây coi.

 Năm sau, thi tú tài hai, tôi vẫn mững đó mà làm. Tôi tin ở lá số tử vi của ông tôi đã chấm cho tôi - thi đâu  đậu đó - và tin nhất là ông tôi vẫn ở bên tôi, phù hộ tôi, dù tôi không thấy được ông.

Thi tú tài hai gồm hai đợt, đậu thi viết mới vào thi vấn đáp. Thi viết thì tôi vẫn trúng tủ, nhưng thi vấn đáp, môn vạn vật, tôi bị kẹt. Số là, khi vào vấn đáp, giám khảo thường để sẵn một số câu hỏi trong hộp nhỏ, thí sinh bốc trúng câu nào trả lời câu đó. Ông giám khảo môn vạn vật nầy nghe nói khó tính lắm. Lạng quạng là ông ta đuổi ra và nói “Anh về học lại, sang năm đi thi. Tôi cho anh không điểm” Buổi sáng đó, tôi để cho mấy đứa vào thi trước.

 Đứa nào thi xong, bước ra, mặt cũng méo xẹo, khiến tôi mất tinh thần, bụng đánh lô tô, miệng cứ lẩm bẩm kêu cứu ông nội tôi phù hộ, độ trì. Tôi giở mấy bài tủ ra coi lại, kiểu nhứt chín nhì bù. Đến khi không còn đứa nào nữa tôi mới rón rén bước vào. Ông giám khảo nầy trẻ nhưng coi bộ hắc ám. Mặt hầm hầm như sắp bợp tai thằng thí sinh ngồi đối diện. Tôi trình thẻ học sinh, ông không thèm nhìn, chỉ tay vào cái hộp nhỏ đựng câu hỏi. Tôi thò tay bốc một câu, mở ra thấy “Tại sao ban đêm, không nên ngủ dưới tàng cây?”

Tôi trình câu hỏi cho ông ta. Ông ta bảo.
- Nói đi!

 Tôi lặng người! Câu hỏi, tôi nghĩ, không có trong sách vạn vật chứ đừng nói trong những bài tủ của tôi. Trong đầu tôi, hoàn toàn không có một chút ý niệm về chuyện đó, nó sạch bóc như tờ giấy trắng. Tôi biết rõ là vong linh ông nội tôi đang ngồi bên cạnh, nhưng chắc chắn ông tôi cũng lắc đầu, thở dài vì vô phương! Thấy tôi cứ ngồi đực ra, ông giám khảo lại nhắc.
- Nói đi!


Tôi khiếp quá, tự nghĩ nên nói một câu gì đó cho không khí bớt căng thẳng, chứ hột vịt thì chắc chắn tôi đã có sẵn rồi. Bỗng nhiên tôi liên hệ bản thân và nói.
- Thưa thầy, ban đêm không nên ngủ dưới tàng cây, vì khi ngủ dậy người uể oải, khó chịu!

Ông ta ngẩn lên nhìn tôi.
- Sao anh biết?

Tôi thấy le lói một tia hy vọng.
- Thưa thầy, buổi tối, em thường đem ghế bố ra sân ngủ, dưới mấy cây vú sữa, sáng dậy, thấy hơi mệt mõi trong người.

Ông ta ngước nhìn tôi, mặt lạnh tanh.
- Đây là khoa học thực nghiệm chứ không phải khoa học huyền bí. Anh phải chứng minh bằng công thức đàng hoàng. Anh biết khí ốc xi không? Anh biết cạt bô níc là gì không? Viết công thức ra xem?

Tôi gãi đầu! Ốc xi thì tôi viết được, cả đến khí cạt bô níc tôi cũng viết được nữa, nhưng công thức viết thế nào? Thấy đã mớm ý cho mà tôi vẫn ngồi ngẩn ngơ như người thất tình, ông giám khảo mở to mắt, ngạc nhiên, có lẽ nghĩ rằng ông đang gặp phải người ngoài hành tinh, gì cũng không biết! Ông cầm thẻ học sinh của tôi lên. Đó là cách đuổi lịch sự. Bỗng nhiên ông nhìn vào thẻ học sinh và hỏi.
- Anh học vạn vật với thầy nào?
- Thưa thầy, em học với thầy Đồng Đen.

 Nói xong tôi mới biết mình hớ, biệt danh của các thầy cô là chỉ bọn học trò dùng với nhau để phân biệt thầy cô nầy với thầy cô khác, đây lại đem ra nói với ông giám khảo của mình, đúng là tộâi phạm húy! Ông giám khảo trao tôi thẻ học sinh và bảo.
- Gặp thầy Đồng thì thưa với thầy là thầy Bình gửi lời thăm. Tôi cho anh bảy điểm. Còn người nào ngoài kia thì bảo họ vào ngay. Gần hết giờ rồi!
- Thưa thầy, em là người chót.

 Ông giám khảo nhìn lại danh sách và gật đầu. Tôi cúi chào ông ta và đi thụt lùi ra khỏi phòng.

Bạn thử tưởng tượng xem, tôi như một người đang bị đày xuống hỏa ngục, đời đời bị lửa đốt, đau đớn mà không thể chết được, rồi thình lình có ông Phật, ông Thánh nào đó cứu ra khỏi hỏa ngục, còn cho lên thiên đường ở nữa. Trước đó, chỉ năm phút thôi, tôi thấy ông giám khảo sao ác ôn quá, ngay sau đó lại thấy ông ta hiền từ như ông Phật! Sướng sao đâu! Tôi sướng đến độ cứ tưởng mình đang bay lơ lửng, tưởng như mình nằm mơ. Năm đó tôi đậu tú tài hai, mà đậu vớt mới đã! Đúng như ông tôi nói “Thi đâu đậu đó!”

Cũng chưa hên bằng kỳ thi vào trường Hành Chánh của tôi sau nầy. Tôi vào Sài Gòn học Luật và học cả Văn Khoa nữa. Sau thấy trường Hành Chánh tuyển sinh viên ban Đốc Sự, tôi cũng nộp đơn, nghĩ rằng sau nầy mình làm lớn (?!), phải thông thạo luật lệ và rành về hành chánh. Muốn thi vào trường nầy, tối thiểu phải biết luật Hiến Pháp. Bài bình luận chính trị có đủ điểm, trường mới chấm đến các môn thi khác. Vì tin tưởng ở lá số tử vi của mình nên tôi chả thèm để ý đến chuyện bài vở. Một buổi tối, đi coi xi nê về, tiện tay, tôi mua tờ báo Chính Luận, về nằm đọc chờ giấc ngủ. Khi giở trang trong, tôi thấy bài Hành Pháp của giáo sư Nguyễn Văn Bông. Không biết xui khiến sao, tôi lại học thuộc bài báo nầy, thuộc từ dàn bài đến từng chữ một.

 Quả nhiên, mấy hôm sau đi thi, tôi lại trúng tủ, tuy đề thi có hơi khác. Bạn nào học khóa 14 ban Đốc Sự, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh ắt còn nhớ rõ đề thi đó. Mà bạn biết thi vào trường Hành Chánh khó cỡ nào không? Năm tôi thi tổng số hơn sáu nghìn sĩ tử, chen nhau một trăm chỗ ngồi, trong một trăm chỗ đó lại ưu tiên lấy mười sinh viên sắc tộc, mười sinh viên nữ, còn lại chỉ có tám mươi chỗ. Nếu tính tỉ lệ thì còn khó hơn thi tiến sĩ thời xưa nữa. Hên cỡ đó bảo sao tôi không tin tưởng vào lá số tử vi của mình được?

Sau bốn năm đèn sách, tôi ra trường, nhưng học dốt quá nên đội sổ (đứng chót). Khi chọn nhiệm sở, mấy đứa học giỏi chọn trước, còn lại mấy tỉnh khỉ ho cò gáy ở miền giới tuyến và trên cao nguyên cho mấy thằng cầm đèn đỏ, cỡ như tôi. Tôi về địa phương lãnh một chức phó quận ở một quận miền núi. Ngồi trong quận đường nhìn ra chỉ thấy đồng bào Thượng, nhìn xa hơn nữa là núi cao rừng rậm, thỉnh thoảng nghe vọng về tiếng máy bay, tiếng bom đạn...Vì tin tưởng ở lá số tử vi của mình nên tôi không bao giờ buồn chán. Tôi rất cẩn thận trong cuộc sống cũng như trong công vụ. Tôi đóng đúng vai một ông quan thanh liêm, luôn thương yêu, giúp đỡ đồng bào trong quận. Nói “ông quan thanh liêm” cho oai chứ chức phó quận đâu có quyền hành gì,  hơn nữa bọn trẻ chúng tôi đều có lý tưởng, chỉ nghĩ đến hai tiếng tham nhũng đã xấu hổ với mọi người rồi. Tôi còn nghiêm khắc với chính mình. Tôi không bao giờ nhìn đàn bà, con gái dù các cô gái thượng đã đẹp lại để ngực trần, căng cứng, nhởn nhơ đi trước mặt. Tôi cũng không rượu chè, cờ bạc bao giờ. Chẳng phải tôi thánh thiện gì, nhưng nghĩ đến tương lai sáng lạn (!?) tôi chả dại mà để cho bọn đối lập sau nầy mang đời tư của tôi ra mà bêu riếu.

Thời gian trôi qua, tôi bắt đầu sốt ruột, không hiểu phải bao lâu nữa tôi mới ngồi vào cái ghế tể tướng (thủ tướng)? Nếu cứ làm việc ở nơi hẻo lánh nầy mãi, thiên hạ làm sao biết tôi mà mời tôi ra chấp chính?! Rồi thì tôi được lệnh đi học lớp sĩ quan Thủ Đức. Tôi rất hài lòng khi nghĩ rằng, khi tốt nghiệp sĩ quan quân đội, tôi là người “văn võ toàn tài”, sẽ không mặc cảm khi (làm lớn) phải chỉ huy mấy ông tướng lãnh.

Mãn khóa sĩ quan, tôi được trả về nhiệm sở cũ. Tỉnh điều tôi về làm trưởng ty công vụ tòa hành chánh tỉnh, là ty chuyên việc quản lý hồ sơ, điều động cán bộ, nhân viên trong tỉnh. Tôi nghĩ bộ máy huyền bí của định mệnh bắt đầu chuyển động và con đường công đanh, sự nghiệp của tôi đã mở ra một cách thênh thang đây rồi. Không ngờ ngồi chưa nóng đít ở cái ghế trưởng ty thì xảy ra vụ sập tiệm năm bảy lăm, tôi chạy thẳng một mạch vô tới Sài Gòn rồi chui vô cái rọ tù cải tạo của việt cộng.

Khi có thông cáo tập trung cải tạo, ủy ban quân quản Sài Gòn ghi rõ là đem một tháng tiền ăn. Ai cũng tưởng học tập một tháng rồi về nên hăng hái xin đi học tập, chen nhau vô cổng (tù) đến độ bộ đội phải bắn súng để giữ trật tự. Đến chiều hết giờ, nhiều người ở ngoài cổng, chưa vào kịp, phải trải chiếu nằm ngủ, chờ sáng mai được vô tù sớm! Nơi trình diện học tập, cải tạo là các trường học Gia Long, Trưng Vương, Don Bosco (?)... Ai cũng tưởng sẽ học ở đó, không ngờ mấy hôm sau, lúc nửa khuya, bộ đội dựng đầu dậy, lùa ra xe tải, chở đi. Xe nào cũng có bộ đội, sát khí đằng đằng, súng lăm lăm chỉa vào mấy cậu ngụy, khiến mấy cậu chới với. Xe tụi tôi được đưa lên làng cô nhi Long Thành, có tên mới là trại cải tạo 15 NV. Trước đây, làng cô nhi nầy nuôi bọn trẻ mồ côi, khi tụi tôi lên thì bọn trẻ biến đâu mất cả, có lẽ đã cho tan hàng. Trại gồm hai dãy nhà dài, mỗi dãy có sáu căn, giống như sáu dãy trường học. Bọn tù được nhốt mỗi dãy khoảng trên ba trăm tù. Lúc đông nhất, cả trại có trên bốn nghìn tù. Giai đoạn đầu, tù được thong thả, ăn xong thì làm bản tự khai, nghĩa là khai gia phả ba đời, khai làm chức vụ gì cho Mỹ, Ngụy, đã phạm tội ác gì với cách mạng và nhân dân... Khai xong nộp cho đội trưởng, đội trưởng (cũng là tù) nộp cho nhà trưởng, nhà trưởng (cũng là tù) nộp cho cán bộ quản giáo phụ trách. Ngoài việc tự khai còn lên hội trường nghe cán bộ chửi Mỹ, Ngụy rồi về làm thu hoạch, nghĩa là tù cải tạo cũng chửi Mỹ, Ngụy, càng giống cán bộ càng tốt. Buổi tối thì học hát, những bài hát cách mạng, cũng chửi Mỹ, Ngụy... Mấy cậu ngụy ngồi hát say sưa, tưởng như bọn Mỹ, Ngụy nào đâu chứ không phải mình! Hát bài “Chiếc Gậy Trường Sơn”, bài “Bác đang cùng chúng cháu hành quân” cũng hả họng hát một cách vô tư, cũng căm thù, cũng tình cảm lai láng như mình là bộ đội, là cán bộ việt cộng vừa chiếm được miền Nam và đang làm thịt quân dân cán chính miền Nam để trả thù...

Mấy tên tù nầy đóng kịch, ra điều ta đây giác ngộ cách mạng để đánh lừa cán bộ coi tù, vì biết ngoài cửa nhà tù làm gì cũng có cán bộ rình. Đúng y bon, một lần bọn tù chúng tôi hát bài “Giải phóng miền Nam”, đến câu “Vùng lên, nhân dân miền Nam anh hùng...” thì cán bộ Hai Sự, phụ trách dãy A, thình lình xuất hiện ngoài cửa, nạt vào.
- Dẹp, không được hát bài ấy nữa. Miền Bắc không anh hùng sao? Cấm hát. Ai hát bài ấy, tôi cùm đầu!

Vào nhà tù, tôi chưng hửng! Tể tướng, thủ tướng đâu chẳng thấy mà làm thằng tù không biết ngày nào ra? Khổ nổi, cán bộ cộng sản lại bảo “Ty Công Vụ” là công an, mật vụ, kết tội nặng, đày ra Bắc cho chóng chết.

 Tháng đầu tiên trong trại cải tạo 15 NV được coi là thời sướng nhất trong đời thằng tù cộng sản. Ăn uống đã có nhà thầu Chợ Lớn lo, vì đã đóng một tháng tiền ăn. Bữa nào cũng thịt cá ngon miệng, lại sẵn căn tin, cậu nào có lận theo tiền thì mua cà phê, kẹo bánh...Buổi chiều kéo nhau ra bên hông nhà, nấu cà phê, nhâm nhi, tán phét, tự coi như đi nghỉ hè một tháng. Nhiều cậu còn bàn chuyện sau một tháng về nhà sẽ làm gì sinh sống, vì cách mạng vô thì coi như bị thất nghiệp!? Ngây thơ đến thế là cùng!

Riêng tôi thì hoàn toàn thất vọng. Cái lá số mà ông tôi đã chấm cho tôi, trước giờ rất đúng, nay bỗng nhiên lại xảy ra chuyện kỳ cục nầy?

Trong trại cải tạo nầy có rất nhiều tay rành tử vi, đẩu số. Những người có học mà nghiên cứu một vấn đề gì, tất phải rộng rải, sâu sắc lắm. Thế nên, nhân một lúc các tay tổ tử vi họp nhau sau hè, nói chuyện tướng số, tôi mới đem cái lá số của tôi ra và thắc mắc. Ai cũng hỏi tôi có chắc là đúng ngày sinh, tháng đẻ, có đúng giờ chào đời của tôi không? Sau khi được xác nhận là đúng y trăm phần trăm, họ bấm tay như mấy thầy bói mù, có người đem tờ giấy ra, vẻ ngang, vẻ dọc... Rồi ai cũng ngớ ra, lá số tôi quả có chuyện lạ! Họ lại xúm nhau bàn tới bàn lui, cãi nhau như mổ bò, cuối cùng một ông hỏi tôi, từ trước đến giờ có đóng kịch, hát bội, cải lương lần nào chưa? Có đóng vai thừa tướng, tướng quốc, thủ tướng lần nào chưa? Tôi quả quyết là chưa. Ông ta bảo, sau nầy tôi nên theo gánh hát và đóng vai thừa tướng thì xuất sắc lắm.

Một ông khác, lớn tuổi, hỏi tôi một cách nghiêm trang.
- Cậu biết hiện nay cậu làm chức vụ gì trong trại nầy?
- Tôi làm đội trưởng.
- Cậu có biết, dưới tay cậu có những ai không?

 Tôi kể tên mấy ông trại viên trong đội tôi...Ông A, ông B, ông C...Ông ta lại hỏi.
- Mấy ông đó, vì sao vô đây cậu có biết không?
- Thì ông A làm thẩm phán, ông B làm dân biểu, ông C làm giám đốc nha...

 Ông bạn tù giải thích.
- Thủ tướng chỉ làm xếp ngành hành pháp thôi. Đây cậu quản lý cả ba ngành hành pháp, lập pháp, tư pháp, lớn hơn thủ tướng. Vậy là cậu làm tướng quốc, tể tướng đúng với cái lá số của cậu rồi, còn phàn nàn gì nữa!?

 Tôi nổi xùng.
- Các ông đó đâu còn làm quan chức gì?
- Cậu thấy, thông báo tập trung cải tạo từ phó quận đến tổng thống. Họ nhốt chức vụ vào đây chứ có nhốt tên A, tên B nào đâu. Cậu làm đội trưởng, là làm xếp mấy quan chức đó, vậy cậu không phải tướng quốc thì làm gì?

Cả bọn cười vang, nhưng tôi không cười. Cái thằng cha lốc cốc tử nào bên Tàu, ngày xưa, đã chơi cho tôi một cú đau điếng. Hay là con rồng chưa khép miệng để nuốt ông tôi vô bụng cho con cháu phát vương, phát tướng? Lúc đầu tôi nghĩ như thế, cho đến khi bị đày ra Bắc tôi mới hoàn toàn thất vọng. Sau một tháng, đã hết tiền ăn mà tù đã nộp, chúng tôi bắt đầu ăn “cơm” tù để hiểu thế nào là thằng tù cải tạo cộng sản.

Từ trại tù Long Thành, chúng tôi lần lượt, mỗi đứa được lãnh một cái bao bố, ( là loại bao chỉ xanh có thể chứa đến một trăm ký gạo ), nghe cán bộ bảo để đựng vật dụng cá nhân, nhưng có mấy đứa lại bảo để có sẵn mà cho thằng tù vô bao bố, thả xuống biển cho mò tôm được nhanh gọn, vì thực sự, chúng tôi có đem gì theo đâu mà phải dùng bao bố?

Chúng tôi xuống tàu thủy, ra miền Bắc. Lúc lên bờ, bị đồng bào đứng chờ sẵn mắng nhiếc và ném đá nữa, nhưng khi tù lên vùng rừng núi, đi lao động, gặp riêng, đồng bào họ lại bảo “Nhân dân miền Bắc chờ các ông ra giải phóng, không ngờ các ông ra làm thằng tù!”

Tôi chẳng bao giờ để ý đến những chuyện đó, cũng chẳng suy nghĩ, lo lắng cho tương lai bản thân. Nhưng có điều lạ là đi đến trại tù nào, tôi cũng bị cán bộ chỉ định làm đội trưởng, từ chối có thể bị gán cho tội ngoan cố và bị cùm cũng nên, mà dưới quyền tôi, bao giờ cũng là các ông, trước đây là quan lớn trong các ngành hành pháp, tư pháp, lập pháp...đủ cả.

Gần mười năm tù, tôi được thả về. Ở Sài Gòn, tôi đạp xích lô, bán vé số, sửa xe đạp...sống qua ngày. Tôi cố quên cái lá số tử vi của mình, tôi cũng rất cảnh giác, tuyệt đối không bao giờ thay mặt cho ai, không trưởng toán, tổ trưởng nào cả. Tôi sống một mình, và cũng nghĩ rằng cái lá số tử vi của tôi chỉ là những chuyện rắc rối mà mấy chú ba tàu đặt ra mục đích  lừa phỉnh, dọa nạt những người ngu dốt, kém hiểu biết để kiếm tiền mà thôi.

Thế rồi có vụ HO, tù được đi Mỹ. Tôi nghĩ, giỏi lắm tôi làm thằng cu ly. Tiếng tây, tiếng u tôi nói như thằng ngọng thì chỉ huy được ai, nên tôi yên trí. Thị trấn tôi ở, thuộc vùng Đông Bắc Hoa Kỳ, tuy không đông lắm nhưng rất xô bồ. Đủ thứ người. Da đen cũng có, Mễ cũng có, Á  Châu cũng có. Lộn xộn, bát nháo. Tôi ở trong một chúng cư  đông người Việt, dơ bẩn, nhiều tệ đoan xã hội. Trộm cắp, hút xách, đánh lộn...ngày nào cũng xảy ra. Đậu xe, khóa cẩn thận, nhưng chúng thấy trong xe có gì vừa ý là đập kiếng xe, lấy đi. Đôi khi chúng ăn cắp xe để chở những thứ quốc cấm như xì ke, súng đạn hoặc để đi ăn cướp, bắt cóc...Nhà có con gái, khuya chúng đập cửa kiếng vô mò con người ta, bọn nhỏ la lên, cha mẹ chạy ra, mở đèn, chúng ngang nhiên mở cửa chính đi ra, chẳng ai dám làm gì vì sợ chúng trả thù. Bọn chúng cùng sắc tộc với nhau thì mặc kệ, nhưng vì người Việt hiền lành, chúng quậy luôn cả người Việt. Thấy thế tôi nổi xùng, vận động đồng bào người Việt tổ chức thành một cộng đồng nhỏ, có gì binh vực, giúp đỡ nhau. Bọn bất lương động đến người Việt là tất cả đồng lòng chống trả hoặc gọi cảnh sát đến chỉ tận mặt. Kết quả là từ đó, chúng chừa người Việt, không quấy phá nữa. Các chúng cư quanh đấy, người Việt cũng theo gương mà đoàn kết lại. Rồi nhân những dịp lễ Tết, cộng đồng người Việt họp nhau tổ chức chợ Tết, tổ chức các ngày kỷ niệm truyền thống... Sau cùng thành lập một cộng đồng lớn, bầu cử Hội Đồng Quản Trị rồi bầu Ban Chấp Hành, xin giấy phép lập hội để đủ tư cách liên lạc với chính quyền địa phương. Đến đây thì tôi tự động rút lui. Tôi không muốn đại diện hay chỉ huy ai cả. Tôi ngán chức tước lắm rồi, thứ chức tước “ảo” như đội trưởng, tổ trưởng trong tù. Nhưng nhiều người lại tín nhiệm tôi, họ năn nỉ tôi tham gia Hội Đồng Quản Trị vì biết tôi rất nhiệt tâm với đồng bào. Tôi cự nự như muốn gây lộn, họ vẫn năn nỉ, tôi đành  chấp nhận, nghĩ mình sẽ không đến họp, không làm gì cả tất họ sẽ chán, thế nên, khi họ bầu tôi vào Ban Chấp Hành, tôi cũng không phản đối. Nhưng rồi vì một nguyên nhân mà tôi lại bon chen, cố cho được chức chủ tịch Ban Chấp Hành. Số là trong Ban Chấp Hành có một người đẹp. Với người khác, có lẽ cô không đẹp lắm nhưng với tôi, chỉ mới thấy là đã ngớ người ra, hồn vía lơ lửng đâu trên mây xanh! Người đẹp có đôi mắt và chiếc miệng đúng là “đẹp không thể tả!” Mắt cô một mí, khi cô cười thì như nhắm lại, nhưng dưới hai làn mi đó là cả “một hồ nước mùa thu” long lanh, nếu tôi được cô nhìn và cười thì tôi “chết mê chết mệt”, mặt cứ thộn ra, ai cũng thấy rõ. Thế là từ “lần đầu gặp gỡ”, hình ảnh cô, đôi mắt, nụ cười của cô cứ hiện ra rõ rệt trong đầu tôi, khiến bụng dạ tôi cứ lộn xộn, lúc nào cũng náo nức muốn gặp được cô. Nói theo văn chương là tôi yêu cô, yêu theo kiểu mối tình đầu! Sở dĩ mấy ông bà mời cô ta vào hội vì cô ta rành tiếng Anh, trước đây, khi còn ở Việt Nam, cô là giáo sư Anh Văn, hơn nữa cô rất thiện chí. Mấy người đi HO qua đều được cô giúp đỡ, hướng dẫn đi xin trợ cấp, xin việc...Cô được bầu làm phó chủ tịch ngoại vụ, lo liên hệ với chính quyền và các cộng đồng bạn. Cô còn độc thân, là con gái của một ông cựu trung tá, gia đình cô có một nhà hàng, rất đông khách. Ban ngày hơi vắng khách nên cô có thì giờ lo việc cộng đồng. Từ khi lên chức chủ tịch, tôi xin thằng xếp trong tiệm (tôi làm cu li, sai gì làm nấy) làm buổi tối để có dịp cùng cô làm chuyện thiên hạ. Chở người nầy đi khám bịnh, đưa người khác đi xin việc, xin trợ cấp...Đi đâu tôi cũng năn nỉ cô đi theo, viện  do là không rành tiếng Mỹ. Cô thì lúc nào cũng vui vẻ, nhưng khi chỉ có mình tôi với cô trên xe, cô lại nghiêm trang, mắt luôn nhìn phía trước, không cười khi tôi pha trò! Coi bộ cô không có cảm tình với tôi, nhưng khi đã yêu thì kể sá gì chuyện có được yêu lại hay không! “Nghĩa là cứ nhào đại vô mà tỏ tình, không được thì cũng chả chết ai” Nghĩ thế nên tôi tìm dịp cho cô biết tình cảm của tôi đối với cô. Nhưng phải làm cách nào mà nếu có cảm tình với tôi, cô sẽ hiểu ngay, ngược lại cô sẽ cho rằng chuyện đó không liên can đến cô. Nghĩ mãi tôi mới sáng tác ra được một chuyện tình để tìm cách kể cho cô nghe. Thường thì sáng nào tôi cũng đến nhà hàng của gia đình cô để uống một ly cà phê. Cô mang cà phê ra cho tôi, ngồi đối diện, nói vài câu xã giao hoặc bàn đến chuyện cộng đồng, độ mươi phút cô mới đứng lên, vào bên trong lo việc bếp núp. Một lần tôi đề nghị cô ngồi nán lại để nghe tôi “kể chuyện nầy, hay lắm!” Cô tươi cười ngồi xuống. Tôi kể vắn tắt.

- Cô có còn nhớ, tuần trước tôi và cô ra phi trường đón một gia đình HO, gồm năm người, trong đó có một cô gái đẹp và có duyên đến độ tôi mới gặp mà đã đem lòng thương yêu. Cô ta có đôi mắt lá răm, má lúm đồng tiền, nói năng dịu dàng, vui vẻ. Tôi thường gặp cô ta mà không biết làm cách nào để tỏ tình. Yêu thầm cũng được nhưng rủi cô ấy lấy chồng thì có lẽ tôi sẽ chán đời hoặc thành người điên mất. Theo ý kiến cô, tôi phải làm gì cho cô ấy hiểu được tình tôi? Tôi có nên nói ra cho cô ấy biết không?

 Cô lặng yên một lúc rồi nói.
- Chuyện tình yêu của anh, anh nên hỏi những người đàn ông khác, bọn phụ nữ chúng tôi làm sao có ý kiến được, hơn nữa, phải gặp gỡ cô gái đó mới biết được ý nghĩ của cô ta...

Nói xong cô đứng lên. Tôi không hiểu cô có biết lời tỏ tình gián tiếp đó của tôi không, nhưng sáng hôm sau, tôi đến nhà hàng của gia đình cô uống cà phê, cô không ra tiếp. Tôi đoán cô không ưa tôi, không muốn bị tôi làm phiền. Tôi buồn chán quá, thấy đời vô vị, và cô ta, đối với tôi tuy vẫn đẹp nhưng rất xa lạ, và tôi ngượng, không dám gặp cô. Công việc đón tiếp, giúp đỡ đồng hương mới đến xứ Mỹ, chúng tôi cũng đi chung nhưng tôi không cảm thấy hăng hái chút nào, cô ngồi bên cạnh mà như người chưa gặp lần nào. Nhiều khi tôi đi một mình, không rủ cô đi theo. Tôi có ý định sang tiểu bang khác.

Ban Chấp Hành Cộng Đồng, thấy thì đủ các ủy viên, năm bảy người, nhưng công việc, họ giao hết cho hai đứa tôi rồi lặn đâu mất tiêu. Trước đây, tôi bon chen cho được cái chức chủ tịch là để được dịp gặp người đẹp, nay thì tôi đã chán rồi, muốn rút lui. Thế nên nhân trận thiên tai vừa rồi ở Việt Nam, ban đại diện cộng đồng phát động chiến dịch gây quỹ cứu trợ bão lụt đồng bào trong nước. Buổi họp có vẻ sôi nổi lắm. Lên kế hoạch, chương trình rất kỹ lưỡng, nào là tổ chức văn nghệ, rồi bữa tiệc gây quỹ, ý kiến, đề nghị rất sôi nổi, nhưng cuối cùng lại giao cho Ban Chấp Hành làm cả! Tôi họp mọi người để phân công. Mấy ông trong ban chấp hành lại giao cả cho hai đứa tôi.

Tôi quyết liệt phản đối thì các vị đó lại cười.
- Tụi tôi biết anh quá mà! Lúc trong tù, trực diện với cai tù, anh còn thành công, bây giờ vận động đồng bào đi ăn nhậu, xem ca nhạc... là chuyện nhỏ!

 Tôi ngạc nhiên.
- Sao quí vị biết tôi đi tù cải tạo?

 Các ông ấy nhao nhao lên.
- Anh quên tụi nầy, chỉ biết có người đẹp thôi, chứ tụi nầy vẫn còn nhớ anh. Đi chung một chuyến " Bao Bố 2 (đi đợt hai)", ra ngoài Bắc, đi đâu anh cũng làm đội trưởng tụi nầy.

Lúc đó nhìn kỹ, tôi mới nhớ, đó là mấy ông bạn tù ngày trước, thời gian quá lâu, hơn mười năm rồi, các ông ấy qua Mỹ lại thay đổi, trong tù thì đưa “bộ xương cách trí”, qua Mỹ thì mập nu, nên không nhận ra, vả lại, khi có người đẹp bên cạnh, tôi chẳng nhìn thấy ai khác nữa!

Lại mấy ngài quan lớn, hành pháp, lập pháp, tư pháp... ngày xưa! Và tôi vẫn lại làm xếp họ! Tôi đâu khác gì quan tể tướng?

Lúc trong tù tôi không dám từ chức, nhưng ngoài đời, ở xứ Mỹ, tôi chỉ cần nói “bye!” một tiếng là xong ngay. Trước kia thì cho rằng số mệnh an bài, nay tôi cãi lại số mệnh để xem cái chức tể tướng có còn theo làm phiền tôi nữa hay không? Còn mấy vị quan quyền nầy, trước giờ cứ bắt bí tôi, gài tôi vào với người đẹp để tôi phải làm chủ tịch, thì nay tôi sẽ chơi lại họ. Tôi sẽ qua tiểu bang khác, để xem con rắn mất đầu cựa quậy ra sao? Thế nên tôi vẫn vui vẻ sắp xếp công việc, kêu gọi quí vị ấy tiếp tay, liên hệ với các hội đoàn bạn cùng phát động chiến dịch thêm rầm rộ, hiệu quả. Dự định xong vụ nầy tôi sẽ “lặng lẽ ra đi với một quả tim nặng trĩu buồn phiền!”.

Chiều hôm đó, họp xong, tôi xin cô phó chủ tịch, người đẹp của tôi, nán lại ít phút để bàn công chuyện. Tôi vào đề ngay.
- Cô thấy nhiệm vụ của chủ tịch ban chấp hành có khó khăn, vất vả gì không?

 Cô nhìn tôi dò xét.
- Tôi thấy anh giải quyết chuyện gì cũng ổn thỏa cả, nên nghĩ là không khó khăn bao nhiêu.
- Thế cô có thể thay tôi làm chủ tịch được không? Tôi thấy cô đã có ít nhiều kinh nghiệm trong việcï nầy.

 Cô ngạc nhiên.
- Anh định làm gì mà trao chức chủ tịch cho tôi?
- Tôi sắp đi tiểu bang khác.
- Vì sao vậy? Có ai làm phiền anh? Hay là vì người đẹp mà anh đã kể cho tôi nghe?

 Tôi “đóng pha buồn”. Mặt dàu dàu, mắt nhìn vào nơi xa xăm(!), rồi thở dài.
- Đúng rồi, tôi thất tình cô ta nên muốn đi xa. Tuy biết, rời nơi đây, tôi sẽ nhớ cô ấy lắm....Tôi hy vọng, khi thay thế tôi làm chủ tịch, cô sẽ được mọi người giúp đỡ.

 Cô lắc đầu.
- Tôi không muốn chức vụ gì cả. Tôi chỉ muốn giúp đỡ đồng bào trong lúc mới đến xứ Mỹ xa lạ, để họ ổn định cuộc sống trong giai đoạn đầu mà thôi...
- Thôi được, tôi sẽ đưa ra Hội Đồng Quản Trị giải quyết. Dù sao thì tôi cũng nhất quyết đi khỏi nơi nầy. Ở đây, lúc đầu thì vui nhưng bây giờ tôi buồn chán lắm rồi. Tôi có người bạn ở tiểu bang khác, hắn đã xin sẵn cho tôi một việc làm ở đó.

Lúc đứng lên cô cười mím mím hỏi.
- Sao lối rày anh không đến uống cà phê nữa? Không có tiền thì tôi cho ghi sổ.

 Tôi vẫn thiểu não.
- Khi thất tình thì đến đâu cũng chẳng thấy vui, uống cà phê cũng hết ngon. Nhưng sáng mai tôi sẽ đến, thưởng thức cà phê do  pha lần cuối trước khi lên đường.

Sáng hôm sau tôi đến nhà hàng của cô. Cô đích thân mang cà phê ra cho tôi còn ngồi đối diện, cười nói vui vẻ.
- Tôi mang đến anh một tin vui đây.
- Đang rầu thúi ruột, vui gì nổi!
- Vui chứ! Như thế nầy. Tôi có đến nhà cô gái mà anh trồng cây si. Phải đó là cô Bé Ni không? Tôi hỏi “Bé có thương chú Vy không?' Cô bé trả lời “Dạ thương!” Tôi hỏi “Thương nhiều hay ít?” Cô bé nói “Dạ thương nhiều!” Vậy anh vừa lòng chưa? Bây giờ hết thất tình rồi phải không?

Tôi kêu lên.
- Trời đất! Cái con bé năm tuổi đó thì tôi làm sao thất tình được!?”

Cô nhìn tôi hóm hỉnh.
- Chính anh nói yêu cô ta. Bị cô ta từ chối, anh thất tình, đòi đi nơi khác. Nay tôi hỏi lại, cô ta nói thương anh nhiều thì anh còn đi đâu nữa?

Tôi lắc đầu.
- Đó là tôi nói ví dụ vậy thôi chứ tôi yêu người khác, nhưng cô ta không ưa tôi nên tôi...

Cô nhìn tôi đăm đăm như chờ đợi. Tôi không dám nhìn cô, nhưng biết rằng lúc đó mà tôi  không nói thì không còn dịp nào khác nữa.
- Bây giờ, tôi sắp đi tiểu bang khác nên tôi liều mạng. Cô có ghét tôi, khinh tôi, cũng không làm gì được. Hôm trước tôi nói quanh co như thế, chứ thực ra tôi muốn nói là tôi yêu cô. Nhưng tôi biết cô không ưa tôi, mà tôi không nói, cứ để trong bụng, ấm ức, không chịu được. Bây giờ nói xong rồi...Chỉ xin cô đừng cho ai biết lý do tôi đi tiểu bang khác. Tôi xin lỗi cô nếu tình yêu của tôi làm cho cô bực mình...

Cô cúi xuống, chấm ngón tay vào li nước, vẽ linh tinh trên bàn, một lúc mới nói.
- Ai cũng lớn cả rồi, đâu còn con nít mà phải nói quanh. Nếu anh có tỏ tình với em mà em không đáp lại thì có gì xấu hổ cho anh đâu? Tư cách anh đàng hoàng, lại có lòng vị tha, yêu thương đồng bào...Ai cũng mến phục anh. Hôm trước, nghe anh nói, lúc đầu em tưởng anh nói thật, cứ tự hỏi. Có cô nào mắt lá răm, má lúm đồng tiền giống mình? Em đi tìm gia đình HO mới qua, thì chỉ có con bé Ni. Em biết ngay là anh muốn nói về em. Em cảm động lắm, nhưng ngượng quá, vừa muốn gặp anh vừa sợ anh...

Bao năm nay, quí ngài “cựu” quan lớn đó vẫn cứ bầu tôi làm chủ tịch, làm xếp họ. Hễ kiểm phiếu, thấy tôi đắc cử, làm gì họ cũng hô lên.
- Hoan hô chủ tịch gia đình trị!”

Chỉ vì vợ tôi vẫn lại là cô phó chủ tịch ngoại vụ năm nào.

Bây giờ thì mời bạn cho biết ý kiến “Con người có số mạng không?
                                                   ./.

Tuesday, October 18, 2022

Chuyện Người Con Gái Ao Sen - Sa Huỳnh

 Click Vào Đây - Nhạc phẩm Chuyện Người Con Gái Ao Sen/Ca sĩ Sa Huỳnh

Friday, October 14, 2022

Chuyện Tình Hoa Muống Biển - Phương Anh

 Click Vào Đây - Nhạc phẩm Chuyện Tình Hoa Muống Biển/Ca sĩ Phương Anh

Tuesday, October 11, 2022

SpaceX Starship SN10 bay lên, hạ cánh lần đầu tiên!

 Click Vào Đây - SpaceX Starship SN10 bay lên, hạ cánh lần đầu tiên! 

Tàu Starship SN10 phát nổ sau khi hạ cánh 8 phút

MỸ-Nguyên mẫu SN10 phát nổ trên bãi đáp ở Boca Chica, Texas, có thể do sự cố rò rỉ ở bình chứa nhiên liệu đẩy.

Click Vào ĐâyTàu Starship SN10 phát nổ sau khi hạ cánh 8 phút

Tàu vũ trụ Starship SN10 hạ cánh thành công sau chuyến bay thử nghiệm lên độ cao lớn hôm 3/3, đánh dấu cột mốc quan trọng đối với công ty hàng không vũ trụ SpaceX. Nhưng phương tiện không thể trụ lâu và phát nổ khoảng 8 phút sau khi hạ cánh.

Tàu SN10 lớn chế tạo bằng thép không gỉ, phóng từ cơ sở của SpaceX ở Nam Texas vào 6h15 tối ngày 3/3 theo giờ địa phương (tức 6h15 sáng ngày 4/3 theo giờ Hà Nội), bay cao 10 km, sau đó quay trở lại Trái Đất và tiếp đất thuận lợi sau 6 phút 20 giây. Đây là lần thứ 3 tàu Starship bay thử nghiệm lên độ cao lớn nhưng là lần đầu tiên phương tiện này hạ cánh thành công. Hai phiên bản tiền nhiệm của SN10 là SN8 và SN9 lần lượt cất cánh vào ngày 9/12/2020 và 2/2/2021 đều bay tốt nhưng tiếp đất quá mạnh và nổ thành nhiều mảnh. Tuy nhiên, một số tia lửa xuất hiện ở chân tàu SN10 không lâu sau khi hạ cánh. Phương tiện phát nổ trên bãi đáp vào khoảng 6h30 ngày 4/3 theo giờ Hà Nội, biến thành quả cầu lửa khổng lồ.

SpaceX đang phát triển tàu Starship để chở người và hàng hóa tới Mặt Trăng, sao Hỏa và nhiều điểm đến xa xôi khác. Trên thực tế, SpaceX đang lên kế hoạch ngừng sử dụng tên lửa Falcon 9, Falcon Heavy và tàu Dragon để tàu Starship gánh mọi nhiệm vụ. Hệ thống Starship bao gồm tàu vũ trụ cao 50 m cùng tên và tên lửa khổng lồ Super Heavy, cả hai đều được thiết kế để tái sử dụng toàn bộ và nhanh chóng. Hai phương tiện đều trang bị động cơ Raptor thế hệ mới với số lượng 6 trên Starship và 30 trên Super Heavy. Mẫu tàu Starship cuối cùng sẽ đủ mạnh để bay khỏi Mặt Trăng và sao Hỏa, nhưng cần tên lửa Super Heavy để thoát khỏi lực hút của Trái Đất. Sau khi đưa Starship lên quỹ đạo Trái Đất, tên lửa đẩy sẽ quay trở lại và hạ cánh thẳng đứng, tương tự Falcon 9 và Falcon Heavy.

Theo Musk, nhờ kết hợp khả năng tái sử dụng và lực đẩy, hệ thống Starship có thể chở hơn 100 tấn hàng hóa lên quỹ đạo thấp của Trái Đất. Musk tin rằng đây là đột phá giúp biến những mục tiêu tham vọng như định cư trên sao Hỏa thành hiện thực.

SpaceX đang tiến dần đến mẫu tàu Starship cuối cùng thông qua hàng loạt nguyên mẫu với độ phức tạp ngày càng tăng. Ví dụ, những tàu Starship đầu tiên chỉ trang bị một động cơ và bay quãng ngắn (150 m). Nhưng cả SN8, SN9 và SN10 đều dùng 3 động cơ Raptor, có cánh điều hướng. SN10 thực hiện nhiều thao tác chính xác trong lúc bay, bao gồm bay lơ lửng ở độ cao 10 km, hạ thấp theo phương ngang và và lộn nhào để tiếp đất thẳng đứng. Musk cho biết mục tiêu của SpaceX là đưa một nguyên mẫu Starship lên quỹ đạo trong năm nay và sử dụng hệ thống Starship để chở người thường xuyên vào năm 2023.                                                                                         An Khang (Theo Space)

Sunday, October 9, 2022

Người Tình Không Đến - Băng Tâm

 Click Vào Đây - Nhạc phẩm Người Tình Không Đến - Băng Tâm

Ai Cho Tôi Tình Yêu - Trương Như Ý & Đoàn Minh

 Click Vào Đây - Nhạc phẩm Ai Cho Tôi Tình Yêu/Ca sĩ Trương Như Ý & Đoàn Minh

Wednesday, October 5, 2022

Ăn Năn - Hoàng Hải, Hoàng Yến

Click Vào ĐâyLần Đầu Hai Chị Em Ruột Song Ca Cực Ngọt Ngào Ca Khúc Ăn Năn - Hoàng Hải & Hoàng Yến

Saturday, October 1, 2022

Chuyện ngắn Hoa Nở Trong Tim - Nguyễn Diệu Anh Trinh

 Hoa Nở Trong Tim

Người nghèo nhất không phải là người thiếu cơm ăn áo mặc mà là người sống một cuộc đời… không có ước mơ. Khi hoàn cảnh, đời sống thay đổi thì ước mơ cũng có thể đổi thay. 

Ngày còn bé, khi ngắm mưa rơi, xếp thuyền giấy thả trôi theo dòng nước, cô bé ước mơ có ngày thuyền trôi ra biển lớn. Khi trở thành một thiếu nữ, biết yêu đương, cô mơ cho thuyền cô không gặp sóng dữ và sẽ cập vào một bến an bình. Khi ra đời thường thì… thiếu cái gì, ta mơ cái ấy.

Người nghèo khó, nợ nần vây bủa thường mơ… trúng số, kẻ bất hạnh trong hôn nhân thì đắp xây một… lâu đài tình ái, người đau khổ vì bệnh nan y thì mơ có một sức khỏe, đơn giản như người bình thường… thậm chí kẻ không nhà, đói cơm, giấc mơ đơn giản có khi chỉ là được ăn một bữa cơm no nê với nồi thịt kho mặn.

Với một công việc làm ăn tương đối ổn định, như ý, tôi quan niệm chỉ có những người thất nghiệp mới hay bỏ tiền ra để mua vé số, với ước mơ chỉ đưa ra một đồng và may mắn lấy lại được cả triệu đồng. Bởi vậy ít khi nào tôi mua vé số, vậy mà… tôi vẫn mơ được trúng số độc đắc! Giấc mơ bắt đầu từ một ngày đầu Xuân…

Chúng tôi có chương trình viếng thăm và tặng quà cho một vị cao niên. Cụ bà hơn chín mươi tuổi, chỉ có một ông con trai duy nhất đã xấp xỉ bảy mươi. Những ngày cuối đời, sức khỏe cụ không được ổn định nên gia đình sắp xếp để cụ vào một viện dưỡng lão, nơi có y tá có bác sĩ sẵn sàng chăm sóc cụ khi cần thiết.

Chiếc xe chạy vòng vèo qua vài khoảng rừng, hàng thông cao hai bên đường rì rào trong gió, khung cảnh thật êm đềm. Sau đó, xe dừng lại trước một căn nhà với khoảng sân bằng phẳng và rộng rãi, vài khóm hoa cánh mỏng, nhiều màu rực rỡ như làm khung cảnh nơi này vui hơn. Ánh nắng ban mai chiếu xuyên qua màn mây mỏng, rơi trên cành cây, để lại những bóng nắng nhảy múa lung linh trên nền cỏ.

Việc đầu tiên khi bước vào văn phòng là ghi tên họ người được thăm. Cô y tá làm việc rất vui vẻ, chuyện trò ríu rít. Hành lang dài và rộng đã có vài cụ ông, cụ bà được gia đình đến thăm đẩy xe lăn ra phía ngoài, những bàn tay nhăn nheo đưa lên vẫy vẫy chào chúng tôi. 

Người sắp được chúng tôi thăm hôm nay là cụ bà Tâm, cụ đã quá già không còn đi lại được, chỉ nằm tại chỗ và có y tá chăm nom thường xuyên nên chúng tôi sẽ đến thăm cụ ngay tại giường. Chúng tôi theo chân bác Võ là con trai cụ, nay đã gần bảy mươi tuổi nhưng rất phương phi. Vừa đi bác vừa tâm sự, cách đây mấy năm, ngày đưa bà cụ vào viện thật là là một quyết định đau lòng. Một mẹ già duy nhất mà không chăm nom được, phải để cụ vào sống nơi viện dưỡng lão. Thiên hạ dị nghị, bạn bè bàn tán lao xao chuyện nhà bác.

Không ai hiểu cho hoàn cảnh ở xứ sở này, nhưng bác đã suy nghĩ và bàn bạc trong gia đình. Cho đến lúc này, bác nói, quyết định này không hề làm bác ân hận. Bởi cái viện dưỡng lão này ở gần nhà bác, mỗi ngày đi làm về bác đều có thể ghé qua thăm mẹ già, chăm sóc thường xuyên thì đã có những người điều dưỡng và y tá bác sĩ phụ trách.

Đến phòng bà cụ, đã thấy có một cô y tá đang dỗ dành để thay tã cho cụ. Bà cụ hơn chín mươi mà da dẻ hồng hào, cả hàm răng chẳng còn cái nào nên khi cụ nói phát ra những âm như thều thào. Tôi nhìn cụ và nghĩ chắc ngày còn trẻ cụ cũng là một phụ nữ sắc nước hương trời. Bà cụ nhìn người con trai đến thăm mình, ánh mắt như reo vui. Cô y tá làm xong nhiệm vụ thì quay sang nói chuyện với chúng tôi, bảo rằng cụ bà ngoan lắm, không quấy phá hoặc làm đổ thức ăn như những cụ khác.

Cụ Tâm đưa cánh tay khẳng khiu, bàn tay nhăn nheo vuốt mặt bác Võ, cụ nựng nịu bác Võ như nựng một đứa trẻ con vài tuổi. Miệng cười tươi, mắt hấp háy. bác Võ kề khuôn mặt cũng già nua của mình vào lòng mẹ. Tóc bác Võ bạc phơ, cụ bà Tâm thì mái đầu lưa thưa trắng xóa. Năm tháng đã làm cả hai mẹ con da nhăn tóc bạc nhưng hình như trong lòng cụ Tâm, bác Võ mãi mãi là cậu con trai thơ dại cần được chiều chuộng, vỗ về. Tôi nhìn hình ảnh hai mẹ con mà lòng thấy bùi ngùi, cảm động.

Chúng tôi tặng cụ món quà từ tấm lòng của những người đồng hương. Vừa thăm viếng, chúng tôi vừa bàn tán, trao đổi về cách giải quyết cuộc đời mình khi lớn tuổi. Tôi đã nhìn thấy tận mắt cụ Tâm tuy không còn tự chủ trong mọi sinh hoạt thường ngày được, nhưng sức khỏe cụ thật tốt, với niềm vui hiện rõ khi ông con trai ghé thăm.

Bước qua khu nhà ăn, khu giải trí, qua căn phòng đọc sách, tôi thấy một vài cụ tay cầm sách mà ngủ gục trông thật tội nghiệp. Các cô y tá, các anh chị làm thiện nguyện nơi đây trình bày cho chúng tôi biết thỉnh thoảng cũng có vài thảm cảnh của những cụ già người Việt Nam không hề có con cháu đến thăm. 

Nơi đây không có nhân viên người Việt phục vụ nên các cụ thèm nói chuyện, thèm nghe ngôn ngữ mẹ đẻ. Không ai thăm viếng thì các cụ thẫn thờ cả ngày này tháng nọ, dần dần sinh ra lảm nhảm một mình như kẻ mất trí mặc dù trong phòng của các cụ, hình ảnh và bằng cấp của đám con cháu treo nhan nhản.

Lúc chưa đến viếng nhà dưỡng lão tôi thường có ác cảm và hay phản đối việc con cái đem cha mẹ già vào nơi này. Giờ đây, tôi biết rằng suy nghĩ của tôi chưa thấu đáo. Thật sự, đời sống ở xứ này chịu quá nhiều áp lực về công việc làm ăn. Để đáp ứng nhu cầu vật chất gọi là thiên đường của sự hưởng thụ nơi này, người ta phải đánh đổi bằng những món nợ khổng lồ mà chúng ta thường nghe là “không mắc nợ, không phải người Mỹ”. 

Họ đánh đổi sự mất mát tình cảm, sự tan vỡ hạnh phúc và có khi luôn cả sinh mạng. Những tấm gương hiếu thảo, hình ảnh đàn con ngoan “đứa lo cơm cháo, đứa hầu thuốc men”… chắc không có chỗ đứng trong thời khóa biểu của những con người thời hiện đại này.

Tôi đã nhận ra, viện dưỡng lão là nơi đáp ứng những lỗ hổng mà con người không thể lấp đầy. Chỉ cần nhấn một cái nút là y tá, bác sĩ, điều dưỡng sẽ có mặt ngay, đáp ứng mọi yêu cầu của các cụ. Đó là nơi giúp cho người già về mọi sinh hoạt, bù đắp những thiếu sót mà con cháu không có thời gian hoàn thiện. 

Bên cạnh đó chúng ta nên nhìn thấy thực tế rất đau lòng là thuốc men, máy móc và các dụng cụ y khoa tối tân chỉ để phát hiện ra những tổn thương trong cơ thể nhưng không thể chữa trị những đớn đau tinh thần, những khắc khoải triền miên của lòng khao khát được yêu thương. Bởi thế, các cụ không thể nào nuốt trôi được những mâm thức ăn dư thừa năng lượng nhưng thiếu vắng tình thương.

Trong cái xã hội nhỏ bé này, tôi còn nhận ra được một điều là niềm hãnh diện của bậc cha mẹ ở nơi đây được đong đếm bằng những đợt ra vào, viếng thăm của đám con cháu chứ không phải qua những bằng cấp bác sĩ, tiến sĩ đang treo trên tường. Người già Việt Nam ở đây không thể nào chịu đựng nổi sự trống vắng, cô đơn khi không có sự đồng cảm giữa những con người xa lạ và ngôn ngữ bất đồng nên lúc nào các cụ cũng khẩn khoản muốn về nhà.

Tôi miên man nghĩ về cái viện dưỡng lão đặc biệt cho những cụ già người Việt Nam.

 ***

Một lần, anh hỏi tôi:

– Anh muốn đưa em đến thăm một Nursing home …

– Viện dưỡng lão hả?

– Không, đây không hẳn là một viện dưỡng lão mà là một nơi chăm sóc đặc biệt cho những người bệnh bất toại, nơi người vợ quá cố của anh đã trải qua những tháng ngày dài đằng đẵng suốt năm năm, trước khi về với Chúa.

Tôi mau mắn đồng ý, không cần suy nghĩ.

Chạy dọc theo đường Holcombridge, ngay trong thành phố chừng hai dặm, quanh qua một con đường nhỏ khác, Nursing home nằm trong khung cảnh âm u, buồn tẻ gần cuối đường.

Khi anh bước vào thì người y tá trực đã lớn tuổi, hấp háy đôi mắt xám xanh, nhìn ra anh, bà giang rộng cánh tay ôm lấy anh:

– Trời ơi, lâu quá, tôi không được gặp ông. Ông khỏe không?

– Cám ơn bà, tôi vẫn khỏe.

Anh quay sang giới thiệu tôi là bạn gái. Người y tá già chào đón tôi rất nồng nhiệt, bà dài dòng kể lể:

– Ông ấy dễ thương lắm, tôi chưa thấy ai chăm sóc người thân tốt như ông ấy. Bà vợ ông ấy trước khi qua đời nằm ở đây mấy năm mà không ngày nào ông ấy vắng mặt. Chúng tôi rất khâm phục ông ta, ông ấy là người có trái tim nồng ấm.

Anh xin phép được đưa tôi đi vòng vòng sau khi ghi tên vào cuốn sổ ở phòng trực. Vừa đi anh vừa giới thiệu:

– Đây là phòng bà ấy nằm lúc xưa, đó, cái TV kia là ở nhà anh mang xuống để lại đây cho bà xem, TV luôn mở những chương trình bà thích, dù bà nằm mê man, trí óc không hoạt động, cơ thể sống một đời sống thực vật, anh vẫn xem như bà hiểu biết hết. Người ta bảo đó là một cách để người bịnh gần gũi với đời sống bình thường. Còn đây là phòng khách, nơi này anh thường ngồi hút điếu thuốc, thư giãn trước khi ra về.

Chúng tôi đi theo hành lang, dẫn vào những phòng bệnh, tôi ghé mắt nhìn vào, mỗi phòng có hai giường. Đa số là những người bị tai biến, tê liệt toàn thân, mất cả trí nhớ. Những cụ ông, cụ bà người Á châu thì nhìn còn tạm được, nhìn sang những người gốc bản xứ, gốc châu Âu khi già hay bệnh hoạn thấy còn kinh khiếp hơn. Họ như những cái xác vô hồn, nhợt nhạt, không có sinh khí. 

Nhìn họ không ai có thể tưởng tượng đó là những người cũng đã một thời hoạt động sôi nổi ở nhiều lãnh vực. Có thể là một nhà khoa học, một thương gia hay một nghệ sĩ đi Bắc về Nam. Họ cũng từng có một mái ấm như bao nhiêu người khác, cũng cơ ngơi, cũng bề thế. Vậy mà bây giờ… đời sống của họ buộc phải gắn liền với cánh cửa cuộc đời qua những sợi dây truyền thuốc, truyền thức ăn, truyền oxy chằng chịt… Nếu ở viện dưỡng lão hôm trước tôi ghé qua vốn đã thưa thớt người thăm viếng thì nơi đây càng vắng vẻ hơn. Lác đác chỉ có mấy người phục vụ, y tá, vài ba bác sĩ lặng lẽ làm nhiệm vụ của mình. Buổi chiều nơi đây sao mà đìu hiu quá sức.

Tôi nín thở bước ra vườn hoa, anh vẫn huyên thuyên kể cho tôi nghe về những ngày anh nuôi vợ ở đây. Khung cảnh này, những nhân viên ở đây đều quá quen thuộc với anh. Ánh mắt anh chăm chú nhìn từng khung cửa sổ, từng góc phòng, từng cái kệ chứa nhiều loại dụng cụ y khoa… mọi thứ đối với anh đều thân thiết, gần gũi. Cuối cùng anh nói một câu:

– Đã từng vào đây, thấy những cảnh này mình mới thấy cuộc đời sao vô thường quá. Một con người mới hôm qua đang còn hoạt động năng nổ, nói cười huyên thuyên, chỉ một cơn “stroke” là thành kẻ vô dụng, bất lực, mất hết tri giác. Cho nên… hơn thua mà làm gì, phải không em?

Tôi nắm bàn tay anh không nói gì, giọng anh bùi ngùi:

– Mẹ của mấy đứa con anh, sau một lần bị choáng thì nằm luôn gần năm năm trời, mất trí nhớ luôn cho đến ngày lìa đời.

Anh thở dài sau câu nói. Rồi anh kể:

– Ngày anh có điện thoại từ cô y tá báo tin vợ anh ngừng thở, lúc đó anh chỉ mới vừa thăm bà ra, đang trên đường về. Mặc dầu năm năm trời bà đã phải tồn tại như người thực vật, ra đi là một giải thoát êm đềm cho thân xác bà, nhưng anh cũng đau lòng lắm. Chỉ một việc gọi điện thoại báo tin cho mấy đứa con biết là mẹ chúng nó mất rồi, vậy mà… anh bối rối, phải bấm tới bấm lui hoài, lâu lắc.

Sau đó anh vội vàng lái xe về nhà để lấy chiếc nhẫn cưới, tự tay anh đeo vào cho bà. Ngón tay không còn sự sống, khô khan queo quắt nên chiếc nhẫn chẳng còn vừa vặn nữa, nhưng anh muốn vậy. Hơn ba mươi năm làm vợ anh, đến ngày bà ra đi vĩnh viễn, anh muốn bà lúc nào cũng có cảm giác là anh đang ở bên cạnh.

Đây là lần đầu tiên tôi nghe anh tâm sự về những chuyện này nên tôi chăm chú lắm. Anh quay sang nhìn tôi và nhỏ nhẹ:

– Anh… thật cám ơn em đã cùng đi đến đây với anh hôm nay. Em mau mắn, không thắc mắc, không phàn nàn, cũng chẳng hỏi đến đây làm gì, thăm ai…

Anh nói và cứ thấy tôi ngồi yên nên ngưng lại:

– Em… sao vậy, mệt hả?

Tôi nhìn anh ngập ngừng:

– Em… chỉ mong anh thương em bằng một nửa người đã nằm xuống là quá đủ rồi.

Anh lặng yên, chỉ nhìn tôi mà không nói. Một ngày cuối tuần của chúng tôi qua nhanh với những san sẻ nơi Nursing home này. Tôi chợt nghiệm ra thêm một lần nữa về ý niệm đời sống quả thật quá phù du như lời của một bài hát mà tôi rất thích nghe… Hãy nói về cuộc đời, khi tôi không còn nữa, sẽ lấy được những gì, về bên kia thế giới, ngoài trống vắng mà thôi… (Thơ Du Tử Lê nhạc Anh Bằng).

Sau chuyến đi lần này, tôi gọi cho đứa bạn thân, tên Thu Hiền, kể về cả hai chuyến đi. Một viện dưỡng lão chăm sóc các cụ già còn tương đối “yêu đời” và một Nursing home chuyên chăm sóc những người bệnh… đủ loại. Tôi nói, đó là hai ngôi nhà tương lai mà chúng tôi mai này sẽ đuợc định cư. Thu Hiền nghe tôi nói nó than phiền:

– Mi ơi, đừng bi quan quá, đừng nghĩ đến một ngày phải vào Nursing home, vô phước quá. Mi với ta đều chỉ có một đứa con gái, mai này mình rủ nhau vô viện dưỡng lão ở chung cho vui.

Thu Hiền cũng rất đồng ý về mộng ước rất thực tế của tôi. Để tạo điều kiện đem lại một quãng đời an vui cho những người Việt cao niên sống xa quê cha đất tổ, nơi không cùng phong tục tập quán và bất đồng ngôn ngữ, tôi mơ sẽ có đủ khả năng, điều kiện để xây dựng một Viện Chăm Sóc Đặc Biệt cho những cụ già người Việt Nam. 

Tôi sẽ mướn y tá, bác sĩ, chuyên viên đều là người Việt, hoặc ít ra cũng phải biết nói tiếng Việt. Tôi sẽ cho xây hai khu nhà ở có vườn tược y hệt khung cảnh Việt Nam, quê hương tôi. Một bên dành riêng cho các cụ già còn tương đối khỏe và tỉnh táo, một bên chuyên chăm sóc những cụ đã bại liệt hoặc mất trí nhớ.

Thu Hiền vui vẻ chấp thuận liền, con nhỏ còn nhắc nhở tôi nên tìm một khu đất ở phía Nam Atlanta, giáp giới với phía Bắc của Florida để mai này vợ chồng nó sẽ dễ dàng lê bước tới trong những ngày tuổi già sức yếu. Hai đứa cười ha hả qua điện thoại. Thu Hiền còn nhắc nhở tôi phải mướn những người nấu nướng biết nấu thức ăn Việt Nam, tôi đồng ý hết, với điều kiện… tôi phải được trúng số độc đắc.

Hai ba hôm, cuối tuần, Thu Hiền lại gọi tôi hỏi có nhớ mua vé số không? Việc xây dựng tới đâu rồi? Con nhỏ làm tôi cũng lên tinh thần dù tuần nào tôi cũng hai lần dò vé số rồi lại vất vào thùng rác.

Ngày xưa, hơn bốn mươi năm về trước, Martin Luther King, một mục sư, một tiến sĩ, một người dân da đen đại diện cho tầng lớp những người da đen của thành phố Atlanta đã từng có bài diễn thuyết ở công trường Lincoln tận thủ đô Washington nổi tiếng. Bài hùng biện như một lời tuyên ngôn về nhân quyền, đã đi vào lịch sử nước Mỹ, “Tôi có một ước mơ…”. Giấc mơ của ông sau đó đã trở thành sự thật với việc thay đổi số phận, mang lại sự bình đẳng cho những người da đen tại Mỹ. Ngày nay, tôi cũng có một giấc mơ …

Ước mơ theo tôi mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm. Ngôi nhà dưỡng lão trong ước mơ của tôi đã thật hoàn chỉnh như ý. Ngôi nhà có lối kiến trúc Việt Nam giữa một khu phố ở phía Nam Atlanta, gần tiểu bang Florida, đẹp và thoáng mát. Có những hàng dừa nghiêng nghiêng bên hồ nước, có cái sân be bé trồng rau cải, bí bầu, giàn mướp đầy hoa vàng dập dìu những chú ong ve vãn.

Mỗi ngày trên đoạn đường lái xe đi làm về, buổi chiều thường bị kẹt xe, tôi thư giãn bằng cách thả hồn mình theo giấc mơ, ánh mắt đau đáu của những ông bà cụ nhìn ra cổng chờ hình bóng đứa con vào thăm hướng theo tôi, thôi thúc tôi. Tôi hình dung ra hình ảnh những đôi vợ chồng trẻ, cuối tuần đưa con cháu vào đây thăm ông bà, mái đầu xanh bên cạnh đầu tóc bạc. Niềm vui như trọn vẹn trong từng nụ cười, ánh mắt. Ngôi nhà tương lai của chúng tôi mang lại hạnh phúc, sự yên lòng cho cả hai thế hệ.

Tôi nhớ có đọc ở đâu đó câu ví von, “Ước mơ là hoa nở trong tim”

Ước gì… tôi trúng số độc đắc để những đóa hoa nở trong tim tôi biến thành sự thật.

  

Nguyễn Diệu Anh Trinh