Thanksgiving 2024 đúng lúc tôi đang ở trong khách sạn ở Sàigòn. Ông bà chủ khách sạn mời tôi về nhà ông bà ăn Thanksgiving.
Không Quân Khóa 63D Trong Tinh Thần Ái Hữu Và Giải Trí
Thanksgiving 2024 đúng lúc tôi đang ở trong khách sạn ở Sàigòn. Ông bà chủ khách sạn mời tôi về nhà ông bà ăn Thanksgiving.
Click Vào Đây - Nhạc phẩm Nhớ Người Yêu/Ca sĩ Hoàng Thục Linh, Đan Nguyên
Đọc chuyện nầy, "cây quế " bé nhỏ nhưng cao cả, không quên ân nghĩa, dễ thương quá tth
Cây Quế Giữa Rừng
Tốt nghiệp xong ra trường, cầm mảnh bằng bác sĩ trong tay tôi tất tả đi xin việc ở các bệnh viện công cũng như tư trong thành phố. Và vận may đã không đến với tôi bằng những cái lắc đầu đầy thông cảm. Chán nản, tôi đáp chuyến tàu khuya hôm ấy về quê, một thị trấn nhỏ nằm trên dãi đất miền trung gió cát mịt mù.
Không nói cũng có thể hình dung ra nỗi mừng vui xen lẫn tự hào mà ba má tôi có được. Ba an ủi tôi:
- Thôi, con đừng buồn, về quê làm việc cũng tốt chán. Bệnh viện khu vực ở thị trấn mình vẫn còn thiếu nhiều bác sĩ lắm đó con à. Đây xuống đó chưa tới mười cây số, con lấy chiếc Honda của ba mà đi làm, ba chỉ quanh quẩn tỉa tót mấy chậu cây cảnh này có mấy khi đi đâu.
Tôi đáp:
- Con cũng đâu dám chê kén gì. Con chỉ mong làm việc ở những bệnh viện lớn để có cơ hội học hỏi thêm, nâng cao tay nghề và dễ dàng tiếp cận với những công nghệ mới của y học.
Thật ra tôi chỉ nói đúng năm mươi phần trăm sự thật. Còn năm mươi phần trăm kia thuộc về cô người yêu xinh đẹp và bé bỏng của tôi đang còn hai năm cuối trên giảng đường… Và có lẽ nếu bắt cô ấy phải lựa chọn giữa cái thằng tôi đẹp trai này cộng với cái thị trấn nhỏ đìu hiu thì… chắc chắn sẽ có một gã xấu trai nào đó ở thành phố “trúng mánh”. Thôi thì đành phó thác cho duyên số!
Buổi làm việc đầu tiên của tôi tại bệnh viện thị trấn diễn ra khá đơn giản. Sau phần giới thiệu và ra mắt với cơ quan tôi mau chóng đi ngay vào phần việc của mình: làm thủ tục cho một sản phụ xuất viện và thăm khám cho hai sản phụ khác (ở trên tôi quên giới thiệu tôi là bác sĩ chuyên khoa sản).
“Thân chủ” đầu tiên và cũng là duy nhất của tôi trong ngày là một cặp vợ chồng mà mới nhìn tôi đã không dấu được ngạc nhiên vì vẻ ngoài khá “khập khiểng” của họ. Trong khi người vợ mà sự mệt mỏi và nặng nhọc của cái bào thai sắp đến ngày sinh nở không làm mất đi vẻ duyên dáng trẻ trung thì anh chồng lại có cái diện mạo thô ráp khá tương phản, với một nửa khuôn mặt lốm đốm vết chàm xanh, hậu quả của một thời đạn bom nào đó. Thăm khám cẩn thận xong, tôi nói với hai người:
- Ổn cả rồi, anh chị có thể yên tâm. Thai thuận, tim thai đập tốt. Chỉ tiếc bệnh viện chưa có máy siêu âm để biết là trai hay gái.
Quay sang người chồng tôi nói tiếp:
- Anh có thể đưa chị về. Cố giữ gìn, sắp đến ngày rồi đó. Khi nào có triệu chứng chuyển dạ nhớ đến bệnh viện ngay.
Hai vợ chồng nhìn nhau, mắt ánh lên những tia hạnh phúc. Tôi cũng cảm thấy vui lây với niềm vui của họ mà tôi đọc được trong ánh mắt. Tuy nhiên tự sâu thẳm tâm hồn tôi hình như có một chút cái gì đó như là sự ghen tỵ đối với cái gã “Trương Chi thời đại” này. Bất chợt trong đầu tôi nhảy ra hai câu ca dao mà đem áp dụng vào đây kể ra hơi thô tục: “Tiếc thay cây quế giữa rừng/ Để cho thằng mán thằng mường nó leo”.
Buổi tối, trong bữa cơm gia đình mà má tôi cố gắng sửa soạn đàng hoàng cho thằng con út ngày đầu tiên chính thức hành nghề bác sĩ, tôi sôi nỗi kể chuyện diễn ra trong ngày. Nghe kể đến chuyện anh chồng già xấu xí có cô vợ đẹp má tôi à lên một tiếng:
- Vợ chồng thằng Đoan con Bích đó mà. Nhà tụi nó ở sát ngay bệnh viện chớ đâu, của ông nội nó để lại đó, là cái nhà có trồng giàn bông vàng trước cổng, rất dễ thấy. Con đi học xa ít về nên không biết đó thôi chớ ở cái thị trấn này ai lại không biết tụi nó…
Ba tôi tiếp lời:
- Cái mặt thằng Đoan nhìn ghê vậy là do cái hồi đi nghĩa vụ ở Campuchia đó. Mẹ cha nó chớ, thằng này mồ côi từ nhỏ ở với ông bà nội mà cũng chẳng được tha. May còn sống chớ chết là coi như tuyệt tự. Nay nó đang làm chân đưa thư ở bưu cục thị trấn đó. Còn con Bích thì nhỏ không hà. Con này đang học lớp mười hai thì dính bầu phải nghỉ học giữa chừng. Tụi nó mới làm đám cưới sáu bảy tháng nay chớ mấy.
Thấy tôi trố mắt ngạc nhiên má tôi cười giải thích:
- Chuyện hơi dông dài một chút. Số là con Bích quen thằng Sanh con ông Tư Trà. Tụi nó là bạn học cùng lớp mà. Đùng một cái gia đình Tư Trà đi Mỹ diện H.O. Hứa hẹn sao đó không biết cuối cùng thằng Sanh theo gia đình đi mất tiêu bỏ lại con Bích với cái thai trong bụng. Chuyện đổ bể nhà con Bích đánh cho nó một trận tá lả. Xấu hỗ quá con Bích uống thuốc sâu tự tử may mà cứu kịp. Trong thời gian nằm ở bệnh viện gia đình nó cũng bỏ luôn. Chỉ có thằng Đoan thường xuyên ghé lại chăm sóc và an ủi… Sau nghe thằng Đoan có ý định cưu mang con Bích gia đình nó gả liền. Nội thằng Đoan mất rồi nên nó nhờ cơ quan, cũng rượu trà tới cho đầy đủ thủ tục. Đám cưới tổ chức tại cơ quan luôn. Bây giờ tụi nó sống cũng tạm gọi là yên ấm…
Tự nhiên tôi thấy lòng mình chùng xuống. Một nỗi buồn nhè nhẹ, mơ hồ. Tôi thương những cảnh đời, cảnh người không suôn sẻ. Và… tôi bỗng nhớ người yêu tôi quay quắt.
xxx
Cuối cùng thì mọi chuyện cũng qua đi. Năm năm trôi qua, cái thị trấn nhỏ của tôi cũng không vui hơn mấy chút. Tôi cũng đã đỉnh đạc hơn với cái ghế phó giám đốc bệnh viện khu vực kiêm trưởng khoa sản. Và cũng giống như điều tôi đã dự cảm từ lâu, người yêu của tôi đã bỏ tôi mà không hề thương tiếc để lấy một gã xấu trai vô lại ở thành phố (vì quá tức nên tôi gọi gã là vô lại chứ thật ra gã cũng có vai vế khá đàng hoàng và không đến nỗi xấu trai). Tôi ít khi đi đâu rời xa thị trấn trừ những lúc phải về họp ở thị xã. Tuy nhiên tôi cũng có những niềm vui nho nhỏ. Là người thường xuyên phải chứng kiến những phút giây chào đời của những sinh linh bé bỏng trong nỗi đau quằn quại của người mẹ nên đối với tôi cuộc sống vô cùng quí giá. Tôi đã quen đau theo nỗi đau của từng người mẹ, vui theo niềm vui của mỗi người cha. Và cũng có những sinh linh bé nhỏ không may, lòng tôi buồn da diết.
Những đứa bé ra đời và lớn lên đều gọi tôi là “bác” (có lẽ hàm ý trọng thị cái công việc bác sĩ của tôi). Cả cha mẹ chúng cũng vậy, mặc dù tuổi đời và vóc dáng tôi không lấy gì là phương trượng ghê gớm. Và cũng vì cái thị trấn của tôi nhỏ bé lắm nên tôi khá quen thân với những đứa bé của mình. Không, quen với ba mẹ chúng thì đúng hơn. Từ cái lễ thôi nôi cho đến mỗi lần sinh nhật chúng, sự có mặt của tôi luôn là niềm vui và hãnh diện của chủ nhà. Và tôi cũng lấy đó làm niềm vui cho chính tôi.
Buổi chiều sau giờ làm việc, tôi thường đứng trên lan can bệnh viện nhìn qua căn nhà màu xanh của anh chàng Trương Chi (cái tên tôi chỉ tự nghĩ trong lòng mà không nói ra) để ngắm nhìn cảnh gia đình sum họp. Cô Bích giờ đây là giáo viên trường mẫu giáo và bé Na đã biết tíu tít nói cười. Cứ đúng tầm năm giờ chiều là hầu như người mẹ trẻ đang quét mấy cái bông vàng trong sân và bé Na chơi thơ thẩn bên cổng ra vào. Có tiếng xe từ xa và khi anh chàng Đoan-Trương Chi vừa ngừng lại thì con bé chạy ra ôm cứng lấy chân anh ta. Không chỉ riêng con bé, hình như lúc nào tôi cũng đọc được vẻ rạng rỡ trên khuôn mặt của người vợ trẻ xinh đẹp kia mỗi lúc đón chồng về nhà. Tôi chỉ băn khoăn mỗi một điều, liệu họ có thật sự hạnh phúc hay không? Và đã không dưới một lần tôi ao ước mình là anh chàng Trương Chi may mắn ấy…
xxx
Có lẽ sẽ chẳng còn gì để kể thêm về tôi cũng như cái thị trấn nhỏ bé này và những con người hiền lành trong đó nếu như không có một buổi chiều kia chàng Đoan-Trương Chi đến tìm tôi ngay tại phòng khám với bộ mặt khá căng thẳng.
- Có chuyện gì vậy anh Đoan? - Tôi hỏi khi anh vừa bước vào - Bé Na bệnh à?
- Không phải. Mẹ bé Na đi đâu mất tiêu rồi bác Hoàng ơi!
Tôi sửng sốt:
- Ủa, đi mất tiêu là làm sao? Anh ngồi xuống kể tôi nghe thử xem.
Đoan ngồi xuống rút chiếc khăn mùi xoa ra lau trán rồi chậm rãi nói:
- Số là trưa nay đi làm về tôi không thấy Bích đâu. Nhìn trên bàn thấy có tờ giấy ghi mấy chữ: “Em có việc gấp phải đi để giải quyết. Mai em về”. Tôi có linh tính lành ít dữ nhiều bác Hoàng ạ. Chạy ra bến xe thị trấn hỏi thăm thì biết cô ấy đã về thị xã chuyến 9 giờ. Phóng thẳng xuống bến xe thị xã thì không biết hỏi thăm ai, người đông đúc quá mà. Loay hoay một hồi lại phóng xe về nhà. Ngồi chờ mà ruột gan không yên nên qua đây gặp bác…
Tôi nói:
- À, chuyện đâu còn có đó, anh cũng đừng lo lắng quá. Vậy còn bé Na đang ở đâu? Anh có lên trường hỏi thăm chưa?
- Sáng nay mẹ vẫn đưa bé Na đến lớp bán trú ở trường như thường lệ. Hỏi thăm hiệu trưởng thì biết cô ấy có làm đơn xin nghỉ hai ngày, lý do giải quyết chuyện gia đình. Tôi cũng có tới nhà ngoại bé Na, chẳng ai biết gì cả.
- Có thể cô ấy có chuyện gì đó cần giải quyết mà chưa tiện nói. Anh bình tĩnh chờ mai cô ấy về xem sao.
Chàng Đoan-Trương Chi nháy nháy đôi mắt đỏ hoe:
- Chẳng dấu gì bác Hoàng, cách đây mấy tháng Bích có nhận được liên tiếp mấy lá thơ của thằng Sanh bên Mỹ gởi về. Cô ấy có đưa tôi xem nhưng vì tế nhị tôi chỉ ngó qua lớt phớt rồi lờ đi. Đại ý thằng Sanh muốn nối lại tình xưa nghĩa cũ và đòi nhận mặt bé Na.
Tôi cũng cảm thấy băn khoăn:
- Chà, chuyện tế nhị và cũng phức tạp dữ ha. Nhưng có lẽ không sao đâu anh Đoan à. Cô Bích vẫn để bé Na ở nhà thì anh có thể yên tâm mà. Anh coi tới giờ thì đi đón cháu về. Cứ xem như bình thường, giải thích với con bé là mẹ nó bận việc đi đâu đó.
Đoan uể oải đứng dậy:
- Thôi tôi đi đây.
Tôi dặn theo:
- Cứ bình tĩnh nghe anh Đoan. Ngày mai tôi sẽ qua anh…
Chiều hôm sau chưa hết giờ làm việc tôi vội vả cởi áo choàng treo lên móc áo. Dặn dò cô y tá trực vài câu tôi rời bệnh viện băng qua nhà anh Đoan. Anh đang ngồi thẩn thờ giữa phòng khách, trước mặt là ly rượu thuốc, mắt ngóng về phía chiếc đồng hồ treo tường. Tôi bước tới ngồi cạnh anh và không nói gì. Anh đứng dậy bước vô nhà trong rót đem ra cho tôi một ly rượu. Tôi nói giả lã:
- Chà, trời nắng vầy mà uống rượu nóng chết nghen.
Anh Đoan cười gượng gạo:
- Một ly nhỏ thôi mà… để tôi lấy cho bác Hoàng chai nước mát.
Chàng Đoan- Trương Chi lại uể oải đứng lên đi về phía tủ lạnh. Hình như anh muốn kiếm chuyện này chuyện nọ để bận rộn nhằm che dấu cái sốt ruột bên trong. Mặt trời đang nghiêng dẫn về phía núi, hắt cái bóng loang lỗ xuyên qua giàn bông vàng trước ngõ. Một lát sau có tiếng mở cổng. Tôi nhìn ra. Bích đang hối hả đi vào. Vừa nhìn thấy chàng Đoan-Trương Chi cô kêu lên: “Anh ơi!” rồi ôm chầm lấy anh khóc nức nở.
Lát sau khi đã bình tĩnh lại cô cho biết vừa đi Phan Thiết về. Và cũng đúng như linh cảm của Đoan, cô nói cô vừa đi gặp Sanh:
- Sanh và gia đình mới về Việt Nam và đang nghỉ ngơi ở Mũi Né. Sanh gọi điện cho em nói muốn tới gặp để giải quyết chuyện tình cảm trước đây. Thấy không tiện và ngại thiên hạ đàm tiếu làm anh buồn nên em quyết định đi Mũi Né gặp Sanh một lần để nói cho rõ. Cũng may là ông bà Tư Trà cũng là những người biết chuyện, họ hiểu liền sau khi nghe em giải thích. Họ cũng có đưa cho em một số tiền nói là gởi cho bé Na nhưng em dứt khoát không nhận. Em xin lỗi vì đã không nói trước với anh làm cho anh lo lắng. Bây giờ thì yên rồi, họ đã hứa từ đây về sau sẽ không liên lạc gì nữa… Cho em xin lỗi nghen anh Đoan.
Đoan nghẹn ngào, mắt rơm rớm. Anh bước tới ôm đầu Bích vào ngực mình:
- Anh không trách gì đâu. Anh biết là em sẽ về mà, chỉ là nóng ruột thôi…
Bóng chàng Đoan-Trương Chi bỗng trở nên to lớn và cái dáng mảnh mai của cô Bích bỗng như cây quế bé nhỏ trong buổi chiều tà…
Lê Phú Hải
November 6, 2024 là giỗ thứ 15 cho bà xả tôi, đúng lúc tôi đang ở Sàigòn. Thường thì khi tôi ở Sàigòn, tôi cúng giỗ cho bà xả ở chùa ở Bình Thạnh. Khách sạn tôi đang ở nằm trên đường Lê Thánh Tôn, cạnh chợ Sàigòn, cách chùa nấy quá xa. Nên tôi tìm chùa quanh chợ Sàigòn cho gần.
Tôi chợt nhớ lúc tôi mới về Sàigòn và tôi có cúng giỗ cho bà xả tôi ở một chùa ni, gần ngã sáu Phù Đỗng Quận 1. Tôi tìm đến chùa nầy gặp Sư Cô trù trì. Tôi nhắc lại khoảng mười năm trước, nhưng Sư Cô không nhớ tôi.
Mặc dù Sư Cô Trù Trì không nhớ tôi, nhưng Sư Cô rất niềm nở lo cho tôi. Tôi xin chùa lo cho tôi mâm cơm cúng vong và hoa quả cúng Phật và cúng Vong. Sư Cô nhận lời và Sư Cô cho tôi biết giá tiền cho tất cả. Tôi mừng quá. Tôi đưa tiền cho Sư Cô liền và đưa thêm 500 ngàn. Ngoài ra tôi hỏi và Sư Cô cho tôi biết, chùa có tất cả 4 Sư Cô. Tôi hứa sẽ lo 4 bao thơ cúng dường cho 4 Sư Cô. Sư Cô vui cười. Ngoài ra, khi cúng Phật ở Chánh Điện xong, tôi có cúng Chùa trong thùng công đức.
Đúng ngày giỗ, Sư Cô Trù Trì có việc phải đi, nên Sư Cô phó trù trì cúng vong và một Sư Cô trẻ cúng Phật. Hai Sư Cô cúng thật tuyệt vời và tôi mừng quá sức. Tôi tin rằng vong linh bà xả tôi vui lắm. Ngoài ra chùa mua hoa quả nhiều và loại đắc tiền. Thức ăn thì nhiều và ngon. Tôi cảm thấy hên và vui quá.
Lệ Hoa trong chuyện, người đẹp Cần Thơ, lăng xã, xoay xở kiếm tiền nuôi 7 đứa con và người chồng Mỹ, trong cái thưở ban đầu đến Mỹ của ngày 30 tháng 4, 1975. Tôi nể phục bà, nhất là bà khuyên chồng về hưu lính, vì cứ di chuyển theo lính hoài thì 7 đứa con làm sao học hành và rồi chúng sẽ không ra gì! Bà có tầm nhìn hay quá! Bà làm người Việt Nam thơm lây. tth
Nước Mỹ: Không phải Tạm Dung - Lệ Hoa Wilson
Vùng I chiến thuật lấy Ðà Nẵng (nơi tôi và ông xã gặp nhau) làm thủ phủ nên có rất nhiều bộ chỉ huy trong đó có nhà thương của Hải quân Mỹ là trung tâm y tế cho tất cả binh sĩ Mỹ trong vùng. Qua khỏi ngã tư Mỹ Khê, quẹo mặt để đi vào núi Non Nước, nằm về phía tay mặt là nhà thương. Tôi đoán nó chiếm trọn ít nhứt là năm mẫu đất với các trung tâm y tế mổ xẻ, chữa trị đủ loại, nhà ở cho binh sĩ và dĩ nhiên là một nhà xác! Một nhà xác không có nhiều nước mắt vì thân nhân ở mãi mười ngàn dặm xa!
Trước mặt nhà thương là một bãi đáp trực thăng để tải các thương binh, các chiến sĩ tử trận từ các chiến trường vùng I. Mỗi lần trực thăng đáp xuống thì con đường xe chạy được các quân cảnh Mỹ chặn lại, từng chiếc cáng được vội vã khiêng ra chạy thẳng vào cổng chánh, có người sẽ tỉnh lại với một cái chân nằm đâu đó trong lá rừng rậm rạp, có người sẽ được trở về quê hương dưới lá cờ phủ kín, có người sẽ ngậm ngùi từ biệt những giấc mơ vì cánh tay đã mất, gương mặt đã bị tàn phá, linh hồn đã bị tổn thương…
Vì ông xã thuộc binh chủng hải quân và đóng quân trong nhà thương nên tôi đã có biết bao lần phải ngừng xe, tắt máy, ngồi nhìn những bước chân vội vã, những gương mặt chịu đựng, những ánh mắt buồn hiu của những người tải thương. Mỗi khi có một cái cáng phủ cờ Việt Nam hay Mỹ thì những người Mỹ xuống xe đứng nghiêm chỉnh đưa tay chào vĩnh biệt. Tôi ít khi thấy thương binh Việt Nam, có thể vì họ được chuyển tới một trung tâm y tế khác. Chỉ có một lần tôi thấy một cái cáng được khiêng ra khỏi cửa trực thăng, lá cờ Việt Nam Cộng hòa phủ kín. Tôi không thấy mặt cũng như binh chủng của tử sĩ nhưng một người đàn bà đầu tóc rũ rượi, cánh tay quấn băng treo vào vai còn đẫm máu đang lảo đảo nhảy ra khỏi cửa trực thăng. Tóc chị trước kia chắc được cột lại bằng dây thun, nay chỉ còn một vài lọn lỏng lẻo trên đỉnh đầu còn bao nhiêu thì thả dài rối rắm xung quanh mặt.
Bạn ơi, hình ảnh đau thương nhứt không phải là cái cáng có người chết nằm phủ kín lá cờ vàng chói, không phải dòng nước mắt đầm đìa trên mặt người sống sót mà là một miếng băng vải mỏng dùng để quấn vết thương. Nó bị dơ vì đất và máu. Nó chỉ dài bằng một chiếc khăn mùi soa. Nhưng nó lại được người vợ trân trọng để ngang lên trán, dùng một cọng lạt dừa cột vòng lại sau đầu. Mảnh khăn tang được vội vã quấn tạm thời nhưng sự ly biệt thì chắc chắn ngàn trùng xa cách. Người thiếu phụ Việt Nam đang để tang cho người chồng chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc!
Tôi không ra khỏi xe chào vĩnh biệt người chiến binh nhưng gục mặt vào tay lái nước mắt tuôn rơi khóc thương cho những đứa trẻ đang quẩn quanh trong thôn xóm chờ cha trở lại. Tôi tưởng tượng tới lúc gia đình nghe tiếng chuông reo, mở cửa ra và thấy một người binh sĩ đứng trước mặt với cái nón cầm trên tay. Người mẹ ở ngàn dặm xa kia có ngã xuống vì trái tim tan nát?… Một cái gì đó nhen nhúm trong tâm hồn tôi. Chiến tranh tiếp diễn cho tới một lúc nào đó thì hòa ước được ký, quân đội Mỹ rút đi.
Anh nấn ná xin ở lại Việt Nam và là nhóm binh sĩ cuối cùng ra khỏi phi trường Tân Sơn Nhất vào đầu năm 73. Tháng 6, 1973, tôi sanh đứa con trai đầu lòng cho anh. Tháng 9 năm 74 tôi qua Mỹ thăm anh tiện thể thăm dò chuyện xuất nhập cảnh. Chúng tôi dự định chờ anh ra khỏi quân đội và sẽ về sinh sống tại Việt Nam. Ðiều kiện để tôi nói “I do” là chúng tôi phải ở Việt Nam và sẽ có bảy đứa con. Tôi nào biết trời cao đất rộng là gì, chỉ biết rằng tôi rất ham con và bảy đứa là một con số chấp nhận của gia đình VN, đâu nghĩ rằng đối với người Mỹ hai đứa là lý tưởng, ba đứa là chau mày, bốn đứa là nổi điên, năm đứa là tan nát, sáu đứa là thảm họa mà bảy đứa là… rồi đời!
Thời cuộc thay đổi, đến tháng 3 năm 75 thì tôi quay về Việt Nam để đón các con. Lúc đó tôi đang có thai đứa thứ hai được bảy tháng. Khi còn bên Mỹ, qua tin tức trên báo và tin rỉ ra trong quân đội thì chúng tôi biết chắc là Saigon sẽ mất, nhưng khi về Việt Nam thì Saigon vẫn vui vẻ, vẫn bình yên. Rạp chiếu bóng vẫn hát, tiệm ăn vẫn mở cửa, đám cưới vẫn tiến hành, tình yêu vẫn nở hoa… Tôi thầm cằn nhằn báo chí Mỹ thật là dỏm, toàn là đưa tin vịt không hà.
Nhưng với ngày qua, mọi việc có vẻ tệ hơn. Nhóm người quen bán hột xoàn với mẹ con tôi cùng nhau an ủi rằng “bà Mỹ” còn ở đây chưa chạy thì lo gì. Ông xã tôi kêu điện thoại ngày một hối thúc tôi ra đi. Tôi trả lời là má tôi không cho đi, sợ về Mỹ sanh rồi lấy ai săn sóc, làm sao có củi lửa để hơ, có lá xông để tắm, có nghệ vàng để thoa mặt, v.v. Sanh xong rồi tôi sẽ qua.
Một tuần sau tôi mất liên lạc với anh.
Ngày 20 tháng 4, 1975 một trung sĩ Việt Nam lái xe jeep đến nhà tôi, gõ cửa:
“Xin lỗi đây có phải là nhà của bà Lê Thị Hoa không?”.
Tôi trả lời:
“Trung sĩ ơi, ở đây không có bà Lê Thị Hoa chắc trung sĩ muốn kiếm bà Lệ Hoa phải không?”
Viên trung sĩ vội nói:
“Tôi cũng không biết chắc. Tôi làm việc cho ban an ninh phi trường và được lịnh tới đây chở cái bà có chồng Mỹ lên gặp Đại tá Mỹ phụ tá tùy viên quân sự…”
Tôi cầm lấy giấy và thấy tên tôi. Tôi vội dẫn theo hai đứa con nhỏ nhất lên phi trường Tân Sơn Nhất. Khi vào văn phòng, vị Đại tá cho tôi biết là ông xã đã liên lạc với cơ quan của ông và nhờ họ giúp tôi và các con phương tiện để rời Việt Nam.
Vị Đại tá nhìn xấp tài liệu nói:
“Chồng bà yêu cầu Tòa Đại sứ giúp đỡ bà và ba đứa con di tản khỏi Việt Nam lập tức. Xin bà hãy để hai đứa trẻ này lại đây cho cô thơ ký tôi trông chừng, còn bà thì theo xe trở lại nhà và dẫn đứa thứ ba tới đây, chúng tôi sẽ làm giấy tờ và gia đình bà sẽ ra đi nội trong ngày nay”.
Tôi ngẩn ngơ nhìn vị Đại tá ngồi nghiêm chỉnh trước mặt:
“Ngài Đại tá, ngài có nói chơi không? Tôi sanh ra, lớn lên, sống ba mươi lăm năm tại non nước nầy giữa cha mẹ, thân nhân, bạn bè… và bây giờ ngài cho tôi hai tiếng đồng hồ để từ bỏ tất cả… Xin ngài hãy nói là ngài nói chơi, chuyện này không có thật…”
Nước mắt tôi ứa ra và chắc là tôi có vẻ bi thương của một con thú sắp chết nên vị Đại tá rộng lượng nhìn tôi:
“Tôi biết tình cảm của bà. Thôi bà hãy dẫn con về và ngày mai trở lại. Ngày mai, bà có nghe rõ không? Chuyện đầu tiên bà thức dậy ngày mai là cùng ba con lên xe đến đây. Tôi sẽ gởi người trung sĩ này đến nhà bà sáng mai”.
Tôi về nhà và cả nhà bắt đầu khóc. Tôi đi lên đi xuống thang lầu, mở các hộc tủ ra rồi đóng lại, ra sân thượng nhìn chậu cúc héo queo, xuống nhà bếp ngồi lên bộ ván ngựa, vô nhà tắm rờ rờ cái lon múc nước, ra phòng khách nằm lên võng đưa kẽo kẹt… Tôi như người mộng du, làm tất cả những hành động vô nghĩa đó với tiếng khóc hụ hụ.
Ba giờ chiều tôi gọi điện thoại cho vị Đại tá biết là vì tôi bị xúc động nên đã động đến cái thai. Hiện giờ tôi đang ra huyết và Bác sĩ cấm không cho tôi di chuyển cho đến ba ngày sau. Dĩ nhiên vị Đại tá không dám giỡn với tánh mạng người khác nên phải đồng ý cho tôi thêm ba ngày nữa. Tôi không nghĩ là sau ba ngày đó tôi còn có được một giọt nước mắt nào nữa trong cuộc đời.
Ba má tôi không đi vì tôi có người anh đi tập kết: ông bà chờ sự trở lại. Anh rể tôi không đi vì là sĩ quan Cộng hòa: sợ mang tội trốn lính. Chị tôi không đi vì theo chồng.
Ba đứa cháu trai theo tôi vì sợ sẽ phải bị đày đi lính. Một đứa cháu gái theo tôi vì sợ sẽ bị gả ép cho thương phế binh Cộng sản.
Vì thế ba ngày sau tôi mang một bụng bầu tám tháng và bảy đứa nhỏ lên phi trường. Vị Đại tá nhìn tôi như nhìn con quái vật:
“Xin lỗi bà, theo giấy tờ thì tôi chỉ có quyền cho bà và ba đứa con của bà đi. Hiện tại bà có tới bảy đứa! Tôi thật không thể giúp bà”.
Khi người ta phải phấn đấu cho sự sống chết thì can đảm và khôn ngoan ở đâu bất chợt hiện ra. Tôi nhẹ nhàng nói:
“Tôi hiểu thưa Đại tá. Tôi không trách ông. Nhưng đây là những đứa cháu tôi nuôi từ nhỏ giống như con tôi vậy. Nếu ngài không cho chúng đi thì mẹ con tôi cũng xin ở lại”.
Vị Đại tá bối rối nhìn tôi. Có lẽ ông đã biết rằng rồi thì Việt Nam sẽ mất, rồi thì một làn sóng người sẽ cuồn cuộn ra đi. Sớm một vài ngày, bốn đứa trẻ này có thấm gì đối với số người đang rần rộ chen lấn ngoài kia. Ông thở dài, ngồi xuống ghế ký cái công văn “eight months pregnant wife and seven children of US citizen need to be evacuated” rồi đưa cho tôi. Chúng tôi theo dòng thác người nhớn nhác ra đi.
Chúng tôi tới Camp Pendleton ngày 5 tháng 5 năm 1975. Anh đang đóng quân ở Ferndale, một tỉnh lẻ nhỏ nhắn hiền hòa chỉ có bảy ngàn dân, cách San Francisco sáu tiếng đường xe về hướng Bắc. Lúc đó chiến tranh lạnh giữa Hoa Kỳ và Nga Xô vẫn tồn tại nên đây là một căn cứ hải quân rất quan trọng nằm trên một ngọn đồi cao ngó ra biển. Các đài radar tối tân được đặt cùng khắp để theo dõi các tàu ngầm xâm phạm bất hợp pháp vào hải phận Mỹ và California.
Khí trời California lúc đó là 75 độ mà mọi người lạnh cóng. Ðêm thứ hai tại camp, anh lái xe một lèo 16 tiếng để đến đón mẹ con tôi. Mười một giờ khuya một người lính Mỹ đến lều để dẫn tôi lên văn phòng nơi anh đang làm thủ tục.
Bạn có biết lúc đó tôi giống ai không?
Không Giống Ai Hết!
Ðây là một người đàn bà 36 tuổi, tóc hơi dính chùm lại vì cát bụi, mặt hỏm vào, gò má bị nám, mặc một cái áo dài xanh bên hông chỉ gài được một nút ở dưới nách vì thai bụng quá lớn, ngoài khoác một áo bầu thùng thình màu trắng, đầu trùm cái mền xám cột thắt dưới cằm, chiều dài mền thả phấp phới sau lưng. Le lói hơn nữa là người lính Mỹ trẻ thấy tôi run cầm cập nên cởi cái áo lính trận ra, trước mặt đầy những túi để dao găm, lựu đạn v.v… và trùm lên tôi. Tôi bước vào căn lều. Bàn làm việc nằm cuối phòng và anh đang đứng cúi xuống ký giấy tờ.
Chưa bao giờ trong đời tôi lại bước những bước chân nhẹ nhàng, nặng nề, tủi hổ, hoang mang, giải thoát, run sợ như lúc đó. Ðây là lúc bắt đầu cho những ngày tươi sáng với sum họp thương yêu, với nhà lầu chọc trời, với ngựa xe rộn rã, với tương lai đại học hay là lúc chấm dứt cho dòng sông Hậu hiền hòa với hàng dừa nặng trái, lúc từ giã những hàng me xanh thân yêu Trần Quý Cáp, lúc quay lưng lại với bến Ninh Kiều đằm thắm xinh tươi, lúc quì lạy cha mẹ quê hương nói lời vĩnh biệt?
Tiếng bước chân tôi làm anh quay lại. Anh bước tới ôm lấy tôi. Tôi cố gắng để khỏi ngất đi, quì xuống sàn nhà, tay ôm lấy mặt và nghẹn ngào: “Oh My God honey, I lost my family, I lost my country, I lost everything!” rồi tôi khóc nức nở. Anh quì xuống ôm đầu tôi. Anh cũng khóc. Tất cả người Mỹ trong phòng đều rưng rưng.
Ngày 13 tháng 6 năm 1975 tôi sanh cháu Jimmy. Tháng 9 tựu trường, tôi gởi hai đứa nhỏ nhất cho cô bạn, đi làm phụ giáo lớp một trường tiểu học Ferndale, hai đô la rưỡi một giờ.
Hè 1976, tôi đứng bán hot dog trong hội chợ và ba thằng lớn thì đi dọn rửa phân ngựa trong trường đua. Lúc đó Chánh phủ Mỹ còn giàu nên cứ hai năm là các quân nhân được đổi tới một trạm binh khác. Tôi thấy tụi nhỏ rất buồn và sợ rằng sự dời chỗ thường xuyên sẽ làm tụi nó hụt hẫng vì xa bạn nên khuyên anh giải ngũ. Và chúng tôi dọn xuống miền Nam California, tỉnh La Habra.
Tôi thì để tất cả sự nghiệp lại Việt Nam, anh thì trước khi biến cố Việt Nam xảy ra, đã bị thua lỗ tất cả vốn liếng trong một vụ hùn hạp mở tiệm in với một nhóm dân sự nên chúng tôi hoàn toàn… sạch sẽ. Khi đi mướn nhà ở đường Dexford, La Habra, chúng tôi chỉ dẫn theo bốn dứa nhỏ nhất, hai trai hai gái. Chủ nhà là một người đàn ông Mỹ dễ thương, khi biết anh vừa giải ngũ thì rất vui vẻ nói:
“Ô, căn nhà nầy có ba phòng lớn, thật là lý tưởng cho gia đình ông bà với hai trai hai gái. Tôi rất vui lòng cho ông bà mướn”.
Chúng tôi dở khóc dở cười. Anh là người ít nói và chậm chạp nên tôi bèn duyên dáng cười cười nhìn ông
“Thưa ông, nếu tôi nói với ông là chúng tôi có tám đứa con thì ông có tin chúng tôi không?”
Lần nầy thì chủ nhà nhìn chúng tôi dở khóc dở cười. Ông ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
“Thôi được, tôi đồng ý cho ông bà mướn. Mỗi tháng tôi sẽ đích thân đến thâu tiền nhà. Hy vọng là mọi sự sẽ tốt đẹp”.
Ông đâu có biết rằng tên tôi là Lệ Hoa nghĩa là một bông hoa mỹ lệ, đẹp đẽ chớ chẳng phải là nước mắt của hoa nghe bạn. Vì thế tôi thích trồng bông, thích vườn tược. Tôi sanh ra và lớn lên ở Cần Thơ, bà con sống ở Ô Môn, Thới Lai, Phong Ðiền, Cờ Ðỏ nên mỗi mùa Hè chị em tôi thường về vườn đi cầu khỉ, chèo ghe, bắt ốc gạo, hái vú sữa. Cái chất vườn Nam Bộ đã ăn sâu vào máu tôi nên hiện giờ nhiều người còn cho rằng tôi không có vẻ gì là sang trọng như người Việt Nam sống ở Mỹ. Biết sao!
Sau khi dọn vô, tôi và các con hì hục cuốc đất, đổ phân và biến cái sân trống rỗng của ông thành ra một cái vườn đầy hoa vạn thọ (đây là để honor má tôi vì bà rất thích bông vạn thọ). Tháng sau khi ông tới thu tiền nhà thì ông ngẩn ngơ và phán một câu, “Tôi không cần phải tới tận nhà thâu tiền nữa, bà cứ viết check gởi cho tôi là được. Cám ơn bà về những bông vạn thọ”.
Một vài người quen xúi tôi xin đi làm waitress vì nghề này tiền lương chẳng bao nhiêu nhưng tiền tip thì… ăn chết không hết. Trời ơi tôi nghĩ tới cái viễn cảnh, anh sẽ đi làm, tôi sẽ đi làm lại còn tiền hưu trí từ quân đội nữa thì quả nhiên là… ăn chết không hết! Tôi vội vàng vác đơn tới tiệm Red Lobster gần nhà xin việc. Người manager hỏi bà có làm waitress bao giờ chưa? Dạ chưa. Bà có khi nào làm chủ nhà hàng chưa? Dạ chưa. Cứ hỏi…bà có… bà có… bà có…. Cứ trả lời… dạ chưa… dạ chưa… dạ chưa… và thế là tiền ăn chết không hết chỉ là mộng ảo.
Tôi mua tờ báo thấy rao là “Chương trình CETA của Chánh phủ sẽ trả tiền trường cho một năm học để giúp bạn học các nghề văn phòng như thơ ký, kế toán, phụ tá hành chánh v.v… Mỗi tuần chương trình sẽ tặng bạn bốn chục đô để di chuyển và sau khi tốt nghiệp sẽ kiếm việc làm cho bạn…”. Tôi nói với anh đây chắc hẳn là một sự lường gạt vì làm gì lại có sự tốt đẹp như thế. Anh thì lớn lên đã nhập ngũ, phần nhiều thời gian nếu không lang thang trên biển cả thì cũng đóng quân ở một xứ khác ngoài Mỹ nên đối với xã hội dân sự cũng có chút bỡ ngỡ. Tôi hăng hái tới cơ quan xin vào chương trình thơ ký. Người phụ trách chương trình thấy tôi là người tị nạn, chồng lại là cựu quân nhân, hình dạng có vẻ nghèo nên thương tôi. Sau khi nói chuyện và đọc cho tôi viết một đoạn Anh văn, bà nhận tôi vào chương trình thơ ký. Khi tôi lui cui làm giấy tờ, bà dịu dàng hỏi:
“Bà có giỏi toán không? Làm nhân viên kế toán thì nhiều lương hơn thơ ký thường và rất dễ kiếm việc làm”.
Tôi không dám trả lời vì không biết “toán” của bà thuộc về loại gì nên ngập ngừng:
“Dạ tôi cũng không biết chắc”.
Bà lấy ra một bài thi toán đưa cho tôi. Ái dà, bà ơi. Có phải là bà đang chà đạp cái trường Gia Long của tôi không? Tôi là học sinh đệ nhất A đây nha bà, dù tôi không được như bà Dương Nguyệt Ánh ngày nay phát minh ra cái gì là bom tìm nhiệt thì ba cái 25% của 100 là bao nhiêu, 1/3 của 75 có lớn hơn 2/3 của 40 không v.v.. là cái chuyện nhắm mắt cũng trả lời được.
Một năm sau tôi được giới thiệu vào làm cho Công ty nhà hàng Dennys, bộ phận kế toán xuất nhập.
Làm việc bảy năm tại Dennys tôi đã học được biết bao điều về gia đình, xã hội, dân tình Mỹ. Trong những buổi ăn trưa tôi học đan áo, học móc khăn, học cách nấu món ăn Mỹ, Ý, Tây Ban Nha, học cách dạy con, cách đối xử với chồng, học cách không bao bạn ăn để rồi kể lể khi giận hờn nhau, mà mạnh ai nấy móc túi trả phần mình và tình bạn thì không bao giờ sứt mẻ.
Những người bạn ngoại quốc mới này giúp tôi hoàn thiện ngôn ngữ, hiểu rõ những tiếng lóng, sử dụng thành thục những thành ngữ, trả lời điện thoại một cách chuyên nghiệp.
Giúp tôi biết nói cám ơn với con cái. Biết dằn lòng không mở thư của chúng ra kiểm soát. Biết chỉ dẫn chúng tự thực nghiệm cuộc đời hơn là bao che lầm lỗi. Biết nói xin lỗi khi phạm phải sai trái.
Biết văn minh không phải là mặc áo hở ngực hở mông mà là tuân thủ theo Hiến pháp. Biết tự do không phải là mạnh ai nấy làm mà là kính trọng nhân vị của chính mình và của đồng loại. Biết thành công là nhờ vào sự mẫn cán, học hỏi, cầu tiến chớ không nhờ vào nịnh bợ lấy lòng.
Biết các sắc dân khác cũng đầy thương yêu và nhiều đau khổ. Biết kính trọng người Mỹ đen. Biết thương yêu người Mễ nghèo.
Họ cười lăn lóc với cái accent Á Ðông của tôi nhưng họ không chê tôi dốt nát. Họ chỉnh sửa lại những tiếng tôi dùng sai trật nhưng không có ý khinh khi. Họ không đánh giá tôi cao vì tôi đến từ gia đình trưởng giả như tôi khoe khoang. Họ không nhìn tôi thấp kém vì tôi thuộc third world country như báo chí thường đăng tải. Họ nhìn tôi giống như họ, một người vợ, một người mẹ đang cố gắng kiếm tiền một cách lương thiện để giúp chồng nuôi dạy đàn con.
Chín mươi phần trăm nhân viên kế toán là đàn bà. Ðây là những bà mẹ, bà vợ ban ngày làm toàn thời gian, chiều về nấu ăn chăm lo con cái, cuối tuần giặt giũ, lau chùi nhà cửa, dạy con làm bài tập, đi chợ, đi chơi với gia đình. Họ sống bình thường mà còn giỏi hơn tôi là đằng khác.Vậy mà khi xưa tôi cứ nghĩ đàn bà Mỹ là đồ bỏ. Tôi mang tội khinh người. Khi ở Việt Nam tôi ít khi nào giặt quần áo cho tôi, cho chồng, cho con. Tôi chưa khi nào lau chùi cầu tiêu, thức khuya dậy sớm cho con bú, kiểm soát từng bài văn điểm toán cho con. Tất cả đều có anh tài xế, chị vú, anh bồi, chị bếp, cô giáo dạy kèm. Biết bao người đã than trời trách đất rằng sống ở đây sao mà cực quá, xã hội gì mà sướng đâu không thấy chỉ thấy cái gì cũng tự mình làm, thời gian hưởng thụ chẳng bao nhiêu mà làm việc thì quay tròn như chong chóng chẳng lúc nào ngừng. Cực ơi là cực. Chỉ chăm chăm muốn về Việt Nam hưởng thụ.
Bạn ơi, bạn hãy dừng chân một bước. Bạn hãy mỉm cười cầm từng món đồ dơ bỏ vào máy giặt, nhìn vết bẩn trên chỗ đầu gối và hình dung lại gương mặt mếu máo đáng yêu của con nhỏ khi té quị xuống bãi cỏ, nhớ lại ánh mắt chờ mong tin tưởng của con khi mẹ đến đỡ lên.
Bạn hãy nhìn cả nhà húp sột soạt chén canh bầu, cùng chia nhau miếng sườn nướng, cuộn chả giò. Bạn hãy cúi xuống đứa bé đang nở nụ cười ngây thơ chờ mong bình sữa bạn đang đu đưa trước mặt. Bạn hãy vừa xào món tàu hủ vừa trả lời thằng con đang cắm cúi làm bài tập bên kia bàn là Los Angeles không phải là thủ phủ của California con ơi. Thủ phủ của CA là Sacramento hoặc square of three is not three, it’s nine. Và năm phút sau đứa con vui vẻ đứng dậy: “Thank you mom (or dad). My home work is done”.
Ðây mới chính là lúc bạn sống, là lúc mà bạn xuyên thủng qua lớp giáp để linh hồn và huyết nhục bạn và gia đình cùng hòa quyện vào nhau. Ðây chính là lúc hột mè trí tuệ nảy nở trong các con do bạn gieo xuống, lúc hạt giống tình yêu thẩm thấu vào linh hồn chúng do bạn cày cấy vào. Chúng sẽ lớn lên với ân cần bạn gởi vào chén cơm, với giúp đỡ bạn sẻ chia trong bài tập, với thương yêu bạn vuốt thẳng áo quần, với mồ hôi bạn chảy dài trong trận đấu. Và vợ chồng bạn có cùng một trận tuyến, cùng một hướng đi.
Tôi đã từ bỏ quê hương điêu tàn, đã quay lưng với tương lai đen tối. Tôi đã chọn một nơi khác để cất nhà, một miếng đất khác để gieo hạt. Tôi đã dùng nước sông của họ để tưới tẩm, dùng đồi núi của họ để chăn nuôi. Tôi đã dùng chất xám của họ để tiến thân, dùng lòng tốt của họ để sống còn. Tôi không bao giờ quên dòng máu Việt trong tôi nhưng tôi sẽ không ngồi đó nhìn non nước này, dân tộc này với một ánh mắt hờ hững, dửng dưng, một thái độ vô ơn, rẻ rúng. Tôi sẽ không coi đây chỉ là một mảnh đất tạm dung và ngồi khóc thương cho một khung trời đã mất, mơ tưởng về một dĩ vãng đã tàn phai.
Tôi sẽ hòa vào các chủng tộc khác nhau, rơi lệ khi thấy tòa nhà chọc trời sụp đổ, đau thương khi nhìn xác lính được chở về, hân hoan khi nghe bài quốc ca trong các cuộc tranh tài. Tôi sẽ dạy các con cùng tôi nhận nơi này làm quê hương, sẽ đem tất cả khả năng lao động hay học vấn đóng góp vào sự thịnh vượng chung của quốc gia này.
Thay vì trồng cây cổ thụ tạm thời trong một cái chậu nhỏ để nó chỉ được lớn èo uột trong bóng râm, tôi và gia đình muốn đào một hố sâu, đổ đầy phân bón, tưới tẩm nó với tất cả ân cần, săn sóc nó với tất cả sức lực để cho rễ mạnh nó ăn sâu vào lòng đất, cho tàn xanh nó tỏa rộng khắp không gian. Chúng tôi không tạm dung. Chúng tôi mọc rễ và yêu thương quê hương này. Rồi một ngày nào đó, ở bên kia góc trời có cần tới một bóng mát bình an, chúng tôi sẽ chiết bớt một nhánh cổ thụ đem về…
Chúng tôi chỉ có thể làm như thế khi chúng tôi nhận nơi này làm quê hương.
Lệ Hoa Wilson