Thiếu nữ Việt Nam

Thiếu nữ Việt Nam
quá dễ thương

Wednesday, April 30, 2025

Vượt Biễn Một Mình - Nguyễn Trần Diêu Hương

 Vượt  Biễn  Một  Mình

Nguyễn Trần Diệu Hương 

April 19, 2025

Tác giả ở trại tỵ nạn Bataan (Philippines)năm 1989 


Ngày 30 tháng Tư 1975, Saigon sụp đổ. Những gia đình đang ở trong các cư xá sĩ quan, cư xá công chức bị đuổi ra khỏi nhà. Cùng chung số phận, gia đình chúng tôi bị đuổi khỏi mái nhà thân yêu trong cư xá, nơi chúng tôi có một thời nhỏ dại êm ả. Mẹ đưa chúng tôi về căn nhà riêng Ba Mẹ đã xây nên bằng công sức của Ba Mẹ, nhưng nhà này cũng bị tịch thu.  Sau hai lần mất nhà, chúng tôi lớn lên như câu ca dao “Còn cha gót đỏ như son, mất cha lăn lóc như lon sữa bò.” Ba chúng tôi còn sống, nhưng đang bị đầy ải trong trại cải tạo ở núi rừng âm u đầy chướng khí của miền Bắc.  Những ngày u ám đó in hằn vào đầu óc của chúng tôi, khiến chúng tôi trưởng thành sớm hơn tuổi của mình, vì chỉ được xã hội cho nếm mùi cay đắng.

Đầu thập niên tám mươi, trước những bế tắc không lối thoát, Mẹ thu xếp gởi anh chị em chúng tôi, từng đứa, vượt đại dương để đến một vùng đất tự do, ở đó không có khủng bố tinh thần, ở đó không có trại cải tạo giam giữ những người hoàn toàn lương thiện, và ở đó chúng tôi sẽ được học hành thành người. Cũng như rất nhiều người vợ lính khác, Mẹ đảm đang, xuôi ngược nuôi chúng tôi, nuôi Ba trong các trại tù cải tạo từ Bắc vào Nam. Tất cả những điều đó đẩy chúng tôi đến đường cùng, không còn lựa chọn nào khác hơn là phải đưa chính mạng sống của mình đánh cuộc với định mệnh, với đại dương. Còn nhớ thời đó, người dân miền Nam Việt Nam vẫn truyền miệng một câu ngạn ngữ của thời đại “Một là con nuôi mẹ, hai là mẹ nuôi con, ba là con nuôi cá.” Cứ thế một hai ba Mẹ lo cho con một mình vượt biển.  Khả năng vượt thoát chỉ là một phần ba. Ròng rã gần mười lăm năm dài, từ cuối năm 1975 đến đầu năm 1990, hàng trăm ngàn thuyền nhân (hay theo như cách gọi của UNHCR–United Nations High Commissions for Refugees, Cao Uỷ Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc là “Boat People”) đã đến được bờ bến tự do. Cùng lúc, hàng trăm ngàn thuyền nhân khác gởi thân vào lòng đại dương.

Chưa qua khỏi tuổi thơ, nước mất, nhà tan, chúng tôi, không có thời mới lớn, tự động bước vào tuổi trưởng thành trước những khó khăn của Mẹ, vượt quá nỗi khổ của bà Tú Xương ở thế kỷ mười chín, vừa nuôi chồng trong tù cải tạo, vừa nuôi một bầy con dại còn ở Tiểu học hoặc ở những năm đầu Trung học. Từng đứa một, khi có điều kiện, Mẹ gởi chúng tôi ra đi.

Đến phiên tôi, Mẹ chỉ đưa được tôi ra bến xe liên tỉnh để đi Vũng Tàu.  Cả hai mẹ con đều đội nón lá rộng vành để che những giọt nước mắt lã chã rơi không ngừng.  Mẹ khóc nhiều hơn những lần đưa các anh em trai của tôi ra đi, vì tôi là con gái duy nhất trong nhà, thân gái dậm trường.  Ngồi trên xe đò từ Saigon về Vũng Tàu, trong một góc xe đò, tôi úp nón lên mặt, để che đôi mắt sưng đỏ vì khóc của mình.

Gần một tuần lênh đênh trên đại dương, chỉ có trời và nước, xanh thẫm ban ngày, đen kịt ban đêm, không có cả một cánh chim, tôi nhớ Ba, nhớ Mẹ quay quắt, nhưng vẫn hài lòng với chọn lựa của mình. Hai ngày đầu, như mọi người trong lòng thuyền, tôi bị say sóng, nôn ra cả mật xanh, mật vàng. Đó là lần đầu tiên trong đời, tôi hiểu thế nào là “mửa mật”. Vậy mà chỉ hai ngày sau, quen dần với cảm giác bập bềnh của con thuyền nhỏ trước lực đẩy của nước ở đại dương, tôi tỉnh táo lại hoàn toàn với đầy đủ sinh lực của “tuổi mười bảy bẻ gãy sừng trâu” mặc dù đã hai ngày không ăn uống.  Khi thuyền ra hải phận quốc tế, chúng tôi được lên khoang thuyền hít thở không khí trong lành đầy vị mặn của đại dương, hình như có thoang thoảng mùi vị của tự do. 

May mắn hơn những người tỵ nạn khác, chúng tôi đi bình yên, không gặp một thuyền nào khác. Trời êm biển lặng vào tháng sáu đầu mùa hè đưa chúng tôi đến thẳng đất liền của Mã Lai sau năm ngày sáu đêm lênh đênh trên biến.

Lên tới đất liền, cùng với chú lái tàu, tôi phải vận dụng vốn liếng tiếng Anh hạn chế đã tích lũy trong những tháng năm chuẩn bị vượt biên để giải thích cho nhân viên Cảnh sát Mã Lai biết chúng tôi là ai, tại sao chúng tôi đặt chân đến đây. Đó chỉ là lần đầu, một khởi đầu kéo dài mãi cho đến bây giờ, phải giải thích tương tự cho rất nhiều người khác nhau thuộc nhiều chủng tộc hiểu tại sao chúng tôi phải bỏ quê hương ra đi để sống đời lưu vong.

Những giờ phút đầu tiên trên đất liền, chúng tôi lại bị “say đất”. Quen với trạng thái bồng bềnh, trôi nổi trên mặt nước; khi trở lại mặt đất bằng phẳng, mỗi lần đặt bước chân xuống, tôi có cảm giác mặt đất chao đảo như còn trên mặt sóng nhấp nhô. Sau hai ngày bận rộn với đủ thứ giấy tờ khai báo với cảnh sát địa phương Mã Lai, chúng tôi được đưa ra trại Pulau Bidong, trại tỵ nạn chính thức của Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp quốc đặt trên lãnh thổ Malaysia để thành một người tỵ nạn chính thức có số căn cước thuyền nhân, chờ được phỏng vấn định cư ở một nước thứ ba.  Lần này, hành trình từ đất liền ra đảo Pulau Bidong vững chắc hơn trên một thuyền khá lớn của UNHCR, có tên là “Blue Dart”, khoảng cách lại ngắn, nên chúng tôi không bị say sóng.

Trại tỵ nạn Pulau Bidong đã dược xây dựng tương đối đầy đủ khi chúng tôi đến đảo vào giữa thập niên 80, có đủ trường Tiểu học, Trung học cho trẻ em, trường huấn nghệ (Vocational School) cho người lớn, có thư viện, có cả Chùa, Nhà thờ trên “đồi tôn giáo”, có Bệnh viện với cái tên khá ngộ nghĩnh và dễ nhớ là “Sick Bay”. Chúng tôi được đón tiếp với những thùng mì ăn liền vĩ đại hãy còn bốc khói, giống hệt như những thùng mì Liên Hiệp Quốc phân phàt cho nạn nhân của thiên tai Tsunami ở South Asia cuối năm 2004.

Lần đầu tiên ăn đồ cứu trợ, sống bằng lòng nhân đạo của người khác, một thân một mình ở trại tỵ nạn của một đất nước khác, nước mắt tôi lăn dài, nghĩ đến Ba vẫn đang mỏi mòn trong ngục tù cải tạo ở núi rừng âm u đầy chướng khí của miền Bắc vẫn thiếu ăn, thiếu mặc; nghĩ đến Mẹ đang vò võ một mình ở nhà, chắc là vẫn đang cầu nguyện cho bầy con đã tứ tán mỗi đứa một quốc gia, một phương trời khác nhau, ở tuổi chưa đến hai mươi.

Tưởng là mình đã rất can đảm khi dám chấp nhận cảnh “thân gái dặm trường”, không ngờ, ở trại tỵ nạn Pulau Bidong, đến khu vực Cô nhi (Minor Refugees Residential Section), dành cho các em dưới mười sáu tuổi đến trại tỵ nạn một mình, tôi thấy em nhỏ nhất chỉ mới sáu tuổi.

Ở đó, có Hanh, chỉ mới mười một tuổi, thông minh, đầy cương nghị, có Bố đang bị “học tập cải tạo” -như Ba tôi- được Mẹ gởi đi vượt biển một mình trên một thuyền bị hải tặc, mọi người đói lả gần ba ngày trước khi đến được trại tỵ nạn. Ở trại tỵ nạn, cậu bé tuy mới mười một tuổi nhưng có sự khôn ngoan và nét chững chạc cúa một người ngoài hai mươi  học hành chăm chỉ, hết học Anh Văn lại quay qua học Toán, quanh quẩn cả ngày ở trường Trung học trên đảo Pulau Bidong.

Ở đó, có Huyên, một em gái mới mười ba tuổi, cả gia đình mất tích trên biển khi thuyền bị lật. Như một phép màu, Huyên bám được một thùng plastic rỗng, trôi nổi bồng bềnh giữa đại dương gần nửa ngày, trước khi được một tàu tỵ nạn khác đi ngang vớt lên. Người ta đã thấy cô bé Việt Nam nhỏ bé mắt nhắm nghiền, gần như hôn mê bất tỉnh. thân xác mỏng manh như chiếc lá khô, hai tay vẫn còn bám chặt cái thùng nhựa rỗng bồng bềnh trên đại dương.

 Ở đó, có Việt, rất thâm trầm, dù mới mười lăm tuổi, nhà cửa bị tịch thu, Ba bị giam ở khám Chí Hòa vì “tội nhà giàu”, Mẹ gởi em ra đi với nhà hàng xóm để thoát khỏi tương lai đen tối của giai cấp “tư sản mại bản”.

Còn biết bao các em khác nữa.  Mười một tháng sau đó ở Pulau Bidong, với vốn liếng Anh ngữ từ những năm ở trường Trung học, và những sách vở của thư viện trên đảo, tôi đã có cơ hội giúp cho UNHCR và cả các phái đoàn Mỹ, Canada, Úc trong việc thông dịch mỗi khi họ đến phỏng vấn thuyền nhân.

Mãi đến bây giờ, tôi vẫn còn cảm giác xót xa khi nhớ lại những lần thông dịch cho những ngưồi đàn bà, con gái Việt Nam bị làm nhục bởi hải tặc trên đường vượt biển, em nhỏ nhất chỉ mới mười hai tuổi. Hồi đó, Cao ủy trưởng Alan ở Pulau Bidong  hỉ định tôi chuyên làm công việc thông dịch đàn bà con gái trong các cuộc phỏng vấn các thuyền vượt biển bị hải tặc. Đó là một công việc rất tế nhị và đầy xót xa. Đến một độ nào đó, nỗi đau vượt quá sức chịu đựngi, người ta mất cảm giác.  Nhiều người nữ thuyền nhân, mặt còn đầy nỗi kinh hoàng nhưng kể lại từng chi tiết ô nhục mà chính mình phải gánh chịu với giọng đều đều, thản nhiên, lạnh lùng như nói chuyện trời mưa, trời nắng, trong khi chính tôi và cô May, Cao ủy của UNHCR đã giọt ngắn giọt dài. Mỗi lần  dịch hay viết xong một hồ sơ tàu tỵ nạn bị cướp, tay áo tôi ướt đẫm vì nước mắt.  Tôi vẫn tự hỏi thủ phạm trực tiếp cho nỗi đau này là hải tặc Thái Lan, thủ phạm gián tiếp thực sự là ai?

Đó là khoảng thời gian rất bận rộn với công việc thông dịch ban ngày giúp cho nhân viên Cao ủy Tỵ nạn. Ban đêm, tôi còn dạy thiện nguyện cho các em, chỉ nhỏ hơn tôi vài tuổi, ở trường Trung học trên trại Tỵ nạn.  Trường chỉ dạy hai môn Anh văn và Toán.  Sách học là những quyển sách đơn giản tương dương trình độ của bộ “English for Today” quyển I đến quyển III. Trước ngày ra đi, tôi chỉ mới học xong quyển IV ở Việt Nam, nhưng nhờ làm việc, tiếp xúc nhiều với các nhân viên UNHCR, và bằng lòng thương yêu các em chân thành như em ruột của chính mình, tôi mang hết kiến thức và hiểu biết của mình truyền lại cho các em, mặc dù tôi chưa hề được qua một trường lớp nào về Sư phạm. Chúng tôi, những người dạy thiện nguyện ở trường Trung học vẫn đùa với nhau là mình đã theo một “trường phái sư phạm mới”, lối dạy “mèo nhỏ tha chuột lớn”

 Có lần, giải nghiã cho các em một từ mới, “dignity” -có nghĩa là phẩm giá- tôi không biết làm thế nào để giảng cho các em hiểu, đành viết lên bằng câu thí dụ “We lost everything, but never lose our dignity”.  Viết đến đó, tự dưng nước mắt tôi lăn dài, các em ở tuổi mười bốn, mười lăm lúc đó cũng khóc theo.  Những giọt nước mắt đó vẫn còn đọng trong tâm khảm tôi cho đến bây giờ, cùng có niềm tin ở một thế hệ trẻ lưu vong có đầy đủ đầu óc và trái tim. Chắc chắn, các em học sinh lúc đó, trên bước đường tha hương sau này, sẽ nhớ và hiểu nghiã chữ “dignity” hơn ai hết, và các em sẽ sống xứng đáng với lòng kỳ vọng của thân sinh các em, khi  Ba Mẹ các em đã phải đứt ruột gởi con ra biển một mình.

Mỗi tuần hai lần, tàu “Blue Dart” của UNHCR cho nước ngọt, mì gói, gạo và thực phẩm tươi gồm gà và rau cải, đôi khi còn có dưa hấu hay thơm vào cho thuyền nhân.

Hầu hết chúng tôi đến trại tỵ nạn chỉ với một bộ quần áo dính trên người. Chúng tôi được phát áo quần từ một kho áo quần “second hand”, tương tự như áo quần cũ bán trong Goods Will ở Mỹ. Áo quần thường rộng thùng thình, quá khổ, nhưng chúng tôi tự sửa lại đúng với kích thước của mình. Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp quốc đã rất là chu toàn trong việc bảo vệ và  chăm lo cho những người tỵ nạn chính trị,

Đến lúc được chuyển qua trại chuyển tiếp Bataan ở Philippines để được hướng dẫn về đời sống văn minh của Mỹ trước khi chính thức đến Mỹ như một người tỵ nạn, chúng tôi được huấn luyện chương trình buổi sáng, buổi chiều làm “Teacher Aid” cho các giảng viên người Phi. Ở đó, đời sống đầy đủ hơn, và lạc quan hơn vì chúng tôi biết chắc chắn ngày mình được định cư ở Mỹ. Và cũng ở đó, tôi có thì giờ tự học nhiều hơn cho chính mình, chuẩn bị một thời kỳ gian nan khác, một khởi đầu từ con số không ở quê hương thứ hai. Một vài lần được về chơi ở Manila (thủ đô của Philippines), những chuyến du lịch đặc biệt bằng xe bus dành riêng cho các “Teacher Aid”, chúng tôi vẫn ngậm ngùi thương cho sự lạc hậu của đất nước mình ngay cả khi so sánh với các nước Á châu khác như Philippines.

“Nỗi buồn nhược tiểu” đó càng tăng cao khi trên đường bay qua Mỹ, tôi được dừng chân hai ngày ở Tokyo- Nhật, thủ đô của nước Á châu giàu mạnh nhất sau khi nếm bài học xương máu với hai cột khói trắng hình nấm khổng lồ ở Hiroshima và Nagasaki cuối thế chiến thứ hai.  Tokyo văn minh sáng rực ánh đèn ban đêm tương phản với Saigon lạc hậu tranh tối, tranh sáng, Nước mắt tôi lại chảy xuống cho sự thụt lùi của quê hương đã bị bỏ lại sau lưng.

Tôi đến Mỹ một tuần trước lễ Giáng sinh, cùng một thuyền nhân Việt Nam khác, hoàn thành nhiệm vụ cuối cùng được giao từ UNHCR, giúp đoàn người tỵ nạn gồm 85 người kể cả một vài người Lào và Cambodia cũng trốn chạy khỏi quê hương như chúng tôi. Giữa những hành khách Mỹ tự tin, cao to, với nhiều hành lý cồng kềnh về nước đoàn tụ với gia đình nhân dịp Giáng sinh và Tết dương lịch, rất dễ nhận ra  những người tỵ nạn nhỏ bé, mảnh mai mắt mở to vui mừng lẫn ngơ ngác, chỉ có hai bàn tay trắng với những túi xách của UNHCR và IOM (International Organization for Migration) chỉ có giấy tờ nhập cư vào Mỹ và giấy tờ tùy thân.

Được chuẩn bị đầy đủ với gần 6 tháng học về “American Culture Orientation” ở trại chuyển tiếp Bataan, Philippines, với trình độ Anh văn tương đối sau một năm tiếp xúc và làm thông dịch viên cho nhân viên Cao ủy Tỵ nạn LHQ, tôi không đến nỗi bị lâm vào cảnh “mán về thành”, nhưng thật sự đời sống ở Mỹ khác xa với đời sống ở quê nhà như mặt trời với mặt trăng, như ngày với đêm.

Hình ảnh của Ba với mái tóc bạc trắng ở tuổi năm mươi trong lao tù cải tạo, hình ảnh Mẹ với đôi mắt buồn trong những ngày chuẩn bị gởi chúng tôi ra đi là nguồn nghị lực không bao giờ cạn, tiếp sức cho chúng tôi trong thời gian chân ướt chân ráo ở quê hương thứ hai.

Từ nhiều trại tỵ nạn ở nhiều nước khác nhau: Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines, anh chị em chúng tôi đến Mỹ trong nhiều thời gian khác nhau, được trùng phùng, như trăm sông đổ về biển, và mang sức sống của tuổi hai mươi lao vào đất nước của tự do và cơ hội.

 Một người bạn cũ của Ba, qua Mỹ từ năm 1975, đang làm ở tổ chức thiện nguyện USCC, giúp tôi có được trợ cấp một lần là 650 dollars dành cho người tỵ nạn mới đến, bác viết cho tôi một reference letter và từ đó “I m on my own way”.  Bác cũng giới thiệu cho tôi đến tìm việc làm ở một vài nơi.  Trời thương, “thánh nhân đãi kẻ khù khờ”, tôi được nhận vào làm full time ở một công ty lớn chỉ hai tuần sau ngày đến Mỹ. Lúc đó là đầu tháng giêng, giữa mùa Đông ở Mỹ, trời lạnh buốt, buổi sáng tôi thức dậy từ sáu giờ ba mươi, trời còn tối, ra đứng chỗ xe bus ở đầu đường, trời lạnh cóng, dưới 40 độ Fahrenheit, tôi phải mặc ba bốn lớp áo, nhưng áo quần cũ chị em chúng tôi đã mua từ Goods Will để vừa với túi tiền của mấy chị em lưu lạc quê người, chỉ có hai bàn tay trắng, với lòng tin của Ba Mẹ đặt ở mỗi chúng tôi.  Một tuần sau, chịu không nổi cái lạnh gần đông đá, từ 32 đến 39 độ Fahrenheit của mùa đông thứ nhất ở Mỹ, tôi dùng cái paycheck đầu tiên của mình thuê người dạy lái xe và dốc hết tiền trợ cấp một lần cho người mới đến mua một cái Toyota Celica đã mười bốn tuổi, để đi học và đi làm.

Đời sống lúc đó, còn nhỏ, là một hình tam giác với ba đỉnh là nhà, trường học và sở làm không hề có giải trí, không có cả thời gian để buồn và nhớ nhà.

Đến Mỹ muộn màng, sau gần mười năm miền Nam sụp đổ, biết thân phận mình là “trâu chậm”, chúng tôi lao đầu vào học, không dám để phí thêm một giờ phút nào. Mùa hè, học phí cao hơn, tôi chỉ ghi danh theo học một lớp, và làm part time cho một trạm bán xăng ở gần nhà. Nghĩa là lúc đó, tôi đi làm full time, đi học full time quanh năm.  Nhiều lúc quá mệt mỏi, tôi lại tự nâng đỡ tinh thần mình bằng câu nói cửa miệng của người Mỹ “No pain, no gain”, và nhớ đến kỳ vọng của Ba Mẹ đã đặt ra cho chúng tôi. Buồn nhất là những lần bất chợt nghe được những câu hát rất đúng với tâm trạng của mình “Ai trở về xứ Việt nhắn giùm tôi người ấy ở trong tù …..”, nghĩ đến Ba, nước mắt tôi vẫn lăn dài, và tự bảo lòng mình phải cố gắng học giỏi hơn để Ba Mẹ vui hơn, đủ nghị lực sống trong đời sống bị khủng bố tinh thần thường xuyên ở quê nhà.

Có lần được phát biểu cảm tưởng với thời gian ba phút trong một lần nhận học bổng, tưởng là sẽ cảm ơn đủ tất cả mọi người và hứa với “scholarship foundation” sẽ cố gắng nhiều hơn, nhưng tôi chỉ nói được gần hai phút:

– Xin cảm ơn tất cả thầy cô đã có công dạy dỗ tôi, xin cảm ơn Hội đồng trao tặng học bổng cho tôi. Xin tri ân  đất nước Hoa Kỳ đã cưu mang và cung cấp một đời sống tự do, no đủ cho tất cả những người tỵ nan, lưu vong. Vinh dự hôm nay xin được dành riêng cho tất cả những người đã nằm xuống cho chúng tôi có được ngày hôm nay, và xin đặc biệt danh riêng cho Ba tôi, người vẫn con đang bị đày ải trong lao tù Cộng sản vì đã ở trong một quân đội bảo vệ tự do,  xin được dành riêng cho Mẹ tôi, người đã rất chu toàn trong việc nuôi dậy con cái một mình.

Một phút còn lại, tôi không nói được vì cử tọa trước mặt đã mờ đi sau màn nước mắt, mùi vị đắng cay sau năm 75 ở quê nhà vẫn kéo về với đầy nỗi xót xa, ngay cả trong giờ phút ngọt ngào nhất. Một thầy giáo người Mỹ gốc Ba Lan đã tỵ nạn Cộng sản từ cuối thập niên 60, dạy tôi từ năm đầu Đại học, hiểu rất rõ tâm trạng của một người tỵ nạn, đã lên diễn đàn giúp tôi hoàn tất lời phát biểu.  Lần đó, tôi được đặc cách đề cử trực tiếp cho học bổng niên khoá kế tiếp, mà không phải qua những thủ tục bình thường. Món tiền tuy không lớn, cũng đủ để trang trải chi phí sách vở, học phí, ăn ở cho một năm học, là một yểm trợ vật chất lớn lao cho tôi trong ba năm đầu chân ướt chân ráo ở quê người. 

Có những điều hằn sâu trong ký ức, lúc nào cũng tưởng như mới vừa xẩy ra, như chuyện say sóng đến độ “mửa mật” của những ngày lênh đênh trên đại dương vẫn ám ảnh tôi không nguôi.  Cho nên, có lần được chọn là “Employee of the year” được tặng vé cho một chuyến đi cruise trên biển một tuần cho hai người, nhớ lại cảm giác đắng nghét ở miệng, cảm giác mất thăng bằng của những ngày mới đặt chân lên đất liền, tôi đã nhường lại phần thưởng đó cho “the runner up” trước con mắt ngạc nhiên của mọi người làm cùng chỗ.

Đó không phải là điều duy nhất người bản xứ không hiểu những người tỵ nạn, những người Mỹ gốc Việt lưu vong. Họ cũng không hiểu tại sao rất nhiều người Việt Nam nhỏ bé ốm yếu vẫn đội mưa đội gió hàng giờ giương cao những tấm biểu ngữ “Human Right for VietNam”, “Freedom for VietNam” ở một góc đường nào đó trong đời sống lạnh lùng, đầy tất bật của đất nước Hoa kỳ. 

Sau  khi đã ổn định, -đã có một “career” đàng hoàng thay cho cái “job” để kiếm sống – có thời tôi đi dạy thiện nguyện cho một trường Việt ngữ ở điạ phương, học sinh là các em teenagers. Dù cùng tuổi nhưng học trò của tôi bây giờ vô tư, ngây thơ, khác xa các em trong trại tỵ nạn chững chạc, trưởng thành trước tuổi.

Ở trường Việt ngữ, ngoài bài giảng từ sách của trường, thì giờ còn dư, chúng tôi giảng trích đoạn từ tác phẩm “Mùa hè đỏ lửa” của nhà văn Phan Nhật Nam, từ bài thơ bất khuất “Nếu ai hỏi” của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện để các em hiểu rõ hơn giá trị của tự do, và biết yêu thương cha mẹ hơn, biết ơn cha mẹ các em đã hy sinh rất nhiều để các em có được ngày hôm nay.

Đời sống ở Mỹ vốn tất bật, nhưng một phút bình lặng nào đó của tâm hồn, dù đang bị kẹt xe trên một xa lộ xe cộ tất tả ngược xuôi hay đang ở trong một cuộc họp ở sở, đầu óc tôi vẫn lang thang về với quê nhà, và buồn thay, bao giờ cũng vậy, mùi vị đắng nghét như đang bị “mửa mật”, mùi vị chua cay của một thời vẫn hiện về, rõ ràng, mồn một như chuyện hôm qua.

Và có một lần “chuyện hôm qua” càng rõ nét hơn. Đến thăm Massachusetts Institute of Technology (MIT) nổi tiếng về chuyên ngành Toán và Kỹ thuật, đang ngồi chờ người bạn ở cafeteria của trường, bỗng một sinh viên người Á châu đi qua, đi lại trước mặt tôi nhiều lần.  Sau cùng, anh ta dừng lại, lịch sự hỏi bằng tiếng Mỹ:

– Xin lỗi, chị có phải là cô Thuyên ở trường Trung học Pulau Bidong năm 1988 không?

Tôi trả lời bằng tiếng Việt:

– Đúng rồi, em có thể nhắc cho tôi nhớ em là ai không?

Người thanh niên vui mừng, rồi bằng một thứ tiếng Việt rõ ràng và lễ độ, anh ta trả lời:

– Em là Hanh đây chị, em học cùng lớp với Huyên và Việt ở Pulau Bidong.  Chị nhớ em không?

Hanh vẫn nhận ra tôi sau mười lăm năm không gặp, nhưng tôi thì không thể nhìn ra được anh thanh niên cao lớn chững chạc trước mặt mình là cậu bé đen nhẻm, chững chạc, chăm học ở trại tỵ nạn năm xưa

Hanh lúc đó đang ở năm cuối của chương trình Tiến sĩ Toán, như ước mong ngày nào em đã trình bày trong một giờ thực tập nói tiếng Anh ở lớp học nhỏ xíu, mái lợp tôn thô sơ giữa đảo Pulau Bidong. Hanh kể cho tôi nghe về chuyện em đến Mỹ một mình ở tuổi mười hai, cùng với một nhóm ngườI Việt Nam tỵ nạn đặt chân đến Mỹ ở phi trường San Francíco, Hanh đổi máy bay về Massachusetts. Đi một mình, dưới mười lăm tuổi, nên Hanh được một cô Stewardess đích thân dắt lên máy bay trước.

Ra đón cậu bé tỵ nạn Việt Nam ở phi trường Logan  Boston- là đại diện của một tổ chức thiện nguyện và cha mẹ nuôi của Hanh.  Đó là một gia đình ngươi Mỹ gốc Tiệp Khắc, qua Mỹ tỵ nạn từ thập niên 60s. Dù chưa bao giờ có ý định xin con nuôi, nhưng thấy Hanh là một cậu bé mới mười một tuổi vượt biển một mình, không có thân nhân, nên họ muốn đưa Hanh vê nuôi. Cả hai ông bà đều dạy Trung học.  Ông dạy Toán, bà dạy Home Economics (tương tự như môn Nữ công gia chánh ở Việt Nam). Người con duy nhất đi học xa, ông bà vẫn làm việc thiện nguyện ở một Nhà thờ Tin lành vào cuối tuần.  Khi thấy tên Hanh, một em nhỏ tỵ nạn Việt Nam mới mười một tuổi, không có thân nhân ở Mỹ, được nhà thờ tìm người bảo trợ, họ xin nhận Hanh làm con nuôi.  Vẻ chín chắn cùng sự khôn ngoan trước tuổi của Hanh đã chinh phục được lòng thương yêu của bố mẹ nuôi người Mỹ từ lúc đầu.  Vì cả hai ông bà đều là nhà giáo, Hanh lại có căn bản về cả tiếng Anh lẫn học lực, lại chăm chỉ học hành nên em được vào thẳng lớp bảy như các học sinh bản xứ mà không gặp trở ngại nào.

Lên Trung học, Hanh tốt nghiệp thủ khoa Trung học. Với sự hướng dẫn quý báu của cha mẹ nuôi, với thành tích học tập xuất sắc trong bốn năm Trung học, cậu bé Hanh tỵ nạn nâm xưa nhận được học bỗng toàn phần của MIT, trong niềm hãnh diện  của cha mẹ nuôi ở Mỹ lẫn cha mẹ ruột ở Việt Nam.

Giữa thập niên 90s của thế kỷ hai mươi, ba mẹ sinh thành cùng hai em của Hanh được qua Mỹ theo chương trình nhân đạo HO.  Vậy là Hanh có đến hai ông bố, hai bà mẹ, và hai gia đình cùng ở tiểu bang Massachusetts, trong hai thành phố kế cận nhau 

Không muốn làm mất lòng gia đình nào, và để được tập trung học tập, Hanh vào nội trú trong MIT.  Mỗi thứ bảy về với cha mẹ ruột, ăn món ăn Việt Nam do mẹ nấu, nghe ba kể về những đọa đày ông phải gánh chịu trong các trại “cải tạo”. Và mỗi chủ nhật, về lại căn phòng thân thuộc mà cha mẹ nuôi đã dành cho Hanh từ ngày cậu bé Việt Nam, da còn đậm màu nắng gió của trại tỵ nạn, chân ướt, chân ráo đến Mỹ.  Căn phòng dù không còn được dùng hường xuyên, nhưng trong closet vẫn còn treo hai bộ áo quần kỷ niệm của Hanh, một bộ Hanh mặc khi mới đến Mỹ được người bảo trợ ra đón, và bộ kia là bộ áo quần đầu tiên Hanh được bố mẹ nuôi mua cho.  Ở một góc bàn học, vẫn còn cái lọ thủy tinh có cắm hai lá cờ nhỏ, một sọc trắng đỏ với năm mươi ngôi sao của Mỹ, một màu vàng với ba sọc đỏ của Việt Nam.  Trên tường vẫn còn hình Hanh năm mười tám tuổi, chững chạc trong áo mũ và dây choàng thủ khoa (valedictorian) ngày tốt nghiệp Trung học.

Một chi tiết rất cảm động trong câu chuyện của cậu bé tỵ nạn ở Pulau Bidong năm xưa là hồi mới đến Mỹ mỗi lần được cho kẹo chocolate, Hanh chỉ ăn một phần nhỏ và để dành hầu hết kẹo để gởi về Việt Nam cho hai em và cho các bạn.   Điều “bí mật” đó bị phát hiện khi hai ông bà Mỹ thấy cậu con nuôi ăn uống rất chừng mực từ tốn nhưng luôn luôn xin được mua thêm chocolate. Kẹo “để dành” thường được Hanh gói cẩn thận trong những túi nylon dán kín để trong một góc tủ áo quần. Halloween đầu tiên ở Mỹ, đi học về, làm xong bài vở, trời vừa sụp tối, Hanh xin phép ba mẹ nuôi cho đi xin kẹo. Cậu bé miệt mài đi bộ một mình trong thời tiết se lạnh đầu mùa thu ở miền Đông Bắc trên bốn năm con đường, gõ cửa từng nhà xin kẹo. Kết quả rất khả quan, sáng hôm sau Hanh gởi được một thủng kẹo mười hai lbs (khoảng 5kg) về Việt Nam mà cước phí còn cao hơn cả tiền mua kẹo. Có nguồn gốc là người Tiệp Khắc, một thời đã phải sống dưới chế độ Cộng sản, bố mẹ nuôi của Hanh hiểu ngay mọi chuyện.  Và ông bà càng quý Hanh, cậu bé Việt Nam tuổi còn nhỏ nhưng tấm lòng đã rất lớn.

Đến phiên tôi, tôi cũng kể cho Hanh nghe giòng đời đã đẩy đưa tôi từ trại tỵ nạn năm xưa đến California như thế nảo.  Có nằm mơ, tôi cũng không tưởng tượng nổi mình gặp lại được cậu học trò đen nhẻm vì vị mặn của gió biển ở Mã Lai, có đôi mắt sáng nhưng lúc nào cũng buồn ở trường Trung học trên đảo Bidong ngày nào.

Ước gì tôi cũng gặp được Huyên và Việt, cũng như đã hội ngộ rất bất ngờ với Hanh ở một góc trường MIT ở miền Đông Bắc nước Mỹ. Nhưng dù chưa hay không có dịp tái ngộ với Huyên và Việt, tôi vẫn tin hai em đã rất thành công như Hanh, chứng minh mình có thể làm được nhiều điều, chẳng hạn như chuyện học hành, mà có một thời ở trong nước, sau tháng 4/75, chình quyền không cho phép mình làm.

Tất cả chúng tôi dều giống nhau ở chỗ phải xa nhà, bỏ đất nước ra đi một mình, dù lúc nào trong tâm tưởng của chúng tôi cũng có một vị trí trang trọng cho quê hương chôn nhau cắt rốn đã phải bỏ lại sau lưng. Chúng tôi đã phải mang cả sinh mạng của mình ra đánh cuộc với định mệnh, với đại dương; một cái giá không một khoán tiền nào, dù lớn đến đâu có thể mua được. Những được mất với cuộc đời hãy còn ở trước mặt, nhưng chắc chắn chúng tôi sẽ cố gắng không ngừng để xứng đáng với cái giá mình phải đánh đổi.

Da vàng. Tranh Đinh Trường Chinh.

Chia tay Hanh hôm đó, tôi mang theo câu nói của Hanh với khuôn mặt rất nghiêm trang, già trước tuổi, và vẫn với đôi mắt buồn xa vắng như lần đầu tiên tôi gặp em ở trường Trung học trên đảo tỵ nạn:

– Điều em vui nhất là đã đền đáp được phần nào ơn nghĩa sinh thành của cha mẹ ruột và ân tình cưu mang của bố mẹ nuôi. Em vẫn cố gắng hết mình, cố gắng đến hết cuộc đời để luôn làm cho cả Ba Mẹ lẫn Mommy, Daddy của em vui. Điều duy nhất không chắc em có làm được hay không, là “gánh sơn hà” mà đôi lúc Ba em và các bác, các chú cùng thời vẫn nửa đùa nửa thật là đã trao lại cho thế hệ của mình

Hanh dừng một chút rồi hỏi một câu mà đến bây giờ tôi vẫn chưa biết cách trả lời:

– Gánh sơn hà nặng lắm một mình em hay cả hai chị em mình không thể nào gánh nổi! Chị ơi, làm thế nào để cả thế hệ của mình đủ sức gánh nổi sơn hà hả chị?

Câu hỏi đó cứ quanh quẩn trong tôi và chắc là phải còn lâu, lâu lắm, tôi mới biết được câu trả lời chính xác. Nhưng tôi tin là chỉ cần một phần mười của một thế hệ Việt Nam (cả ở hải ngọai lẫn trong nước) biết đoàn kết, có nhiệt tâm gánh vác non sông với chí khí của Trần Quốc Toản, với lòng yêu nước của Nguyễn Thái Hoc, và với đầu óc của Lê Quý Đôn thì gánh sơn hà sẽ nhẹ nhàng như cái cặp đi học rất thân thuộc của một thời đèn sách. 

Nguyễn Trần Diệu Hương

Tuesday, April 29, 2025

Monday, April 28, 2025

Đò Chiều - Phan Ý Linh

 Click Vào Đây - Nhạc phẩm Đò Chiều /Ca sĩ Phan Ý Linh

Sunday, April 27, 2025

Ngày Đá Đơm Bông - Như Ý, Lê Minh Trung

 Click Vào Đây - Nhạc phẩm Ngày Đá Đơm Bông/Ca sĩ Như Ý, Lê Minh Trung

Wednesday, April 23, 2025

Lìa Xa Nỗi Nhớ - Trịnh Anh Khôi


Lìa Xa Nỗi Nhớ - Trịnh Anh Khôi 


               Ai đó từng nói: “Cuối cùng, cái mà chúng ta nhớ nhất, không phải là con người, mà là kỷ niệm”. Thế nên, có lẽ điều đáng sợ nhất mà con người phải đối diện, đó là dần dần mất đi trí nhớ. Mất trí nhớ, là mất kỷ niệm, là ký ức bị tan dần theo ngày tháng. Mà xót xa hơn nữa, là với người ở lại, nhớ về một người, vốn đã mất ký ức và đã đi xa, rất xa. (2)

             Ông là một nhà thơ, một nhà văn, một nhạc sĩ, người đã mang đến cho thế hệ thính giả Sài Gòn gần 50 năm trước một cách nghe nhạc hoàn toàn mới lạ trên đài phát thanh với chương trình Nhạc Chủ Ðề. Ông là Nguyễn Đình Toàn, người mà cố thi sĩ Du Tử Lê từng gọi là “Người tình không chân dung” của thính giả âm nhạc.

              Ông đẹp trai, tài hoa, đa tình. Những ngày tháng đó, cứ mỗi tối Thứ Năm, trên Đài Phát thanh Sài Gòn, tiếng nói của Nguyễn Đình Toàn lại vang lên, ru người nghe vào những ca khúc trữ tình bằng lời nói ngọt ngào, tình tứ về những cuộc tình được ươm mầm, sinh ra, lớn lên, … rồi chết. Chết trong bất tử, trên chính mảnh đất quê hương. Ai lại không mềm lòng, ngây ngất với những lời tha thiết, thơm nồng hương hoa đồng nội:

            “… Tình chúng ta bắt đầu như mùa Thu trở lại. Khi những chùm hoa Thạch thảo ngát hương trên lối đi quen. Mùa Thu bắt đầu trên dòng sông bát ngát. Mùa Thu nhuộm vàng những cánh rừng. Mùa Thu phơi áo mơ phai, chiều võ vàng với xác hoa trên hình bướm…” .

           “‘Bồ’của ông ư? Nhiều vô số kể!” - Bạn Phượng Uyên cười giòn khi nói về cái số Đào hoa của bố mình. Nhưng với mẹ bạn, ông là mối tình đầu và cũng là tình cuối.

                Cả cuộc đời của bà dành hết cho ông, cho con, cho sự nghiệp sáng tác của ông. Năm tháng ông bị tù đày, bà đón hai, ba chuyến xe đò, xe lam để vào thăm ông. Thời đó, rất nhiều người phải đi thăm thân nhân ở các trại tù cải tạo. Mà để vào được trại Bố Lá, nơi ông bị giam, mỗi ngày chỉ có một chuyến xe duy nhất. Một tay bà giữ chặt cái giỏ đựng thức ăn chuẩn bị cho ông, một tay bám chặt thành xe trên chiếc xe lam luôn chật kín người, bà thậm chí có lúc chỉ còn có thể trụ tạm một chân ở phía đuôi xe. Cứ thế mà gồng mình cho hết đoạn đường.

               Bà là chỗ dựa vững chắc cho ông từ ngày trở thành “bà Nguyễn Đình Toàn”. Bà chu toàn trong ngoài của cuộc sống để ông thoả sức vẫy vùng trong cõi nghệ thuật. Ở nhà, xe hư cũng bà, bóng đèn hư cũng bà… Bà hy sinh tất cả để người nhạc sĩ của bà sống trọn với đam mê sáng tác.

               Rồi, bà ngã bệnh, căn bệnh lấy đi kỷ niệm, chia lìa ký ức của con người với nhau. Thật ra, bà đã bệnh hơn 20 năm, từ khi còn ở Việt Nam. Cái quên (thường xuyên) của bà đôi khi làm cho ông phải cằn nhằn. Những lúc đó, bà chỉ ngập ngừng, “em đâu có muốn quên đâu?”.

               Bệnh quên quên nhớ nhớ của bà càng trở nặng khi ông bà đặt chân đến Mỹ. Câu nói “Chào cô” bà dành cho con gái của mình trong một ngày gặp mặt vào năm 2012 là dấu mốc bắt đầu cho chuỗi ngày dài bà bước vào đời sống vô tư lự. Nhìn người con trai của mình đứng trước mặt, bà ngước nhìn bằng đôi mắt lạ lẫm, rồi nói: “Sao thằng này giống con mình quá vậy?”.

              Từ đó, bà trở thành “đứa trẻ” hồn nhiên trong những tháng ngày đầy ắp những ký ức chắp nối rời rạc nhiều mảnh ghép quá khứ. Hình như bà vẫn cảm nhận được sự quên - nhớ vô vọng của mình, hoặc cũng vì bà không còn nhận ra một người thân quen nào nữa, nên mỗi khi có khách đến thăm nhà, bà lặng lẽ ẩn mình không xuất hiện.

             Nhưng bà quên gì thì quên, bà không bao giờ quên nhạc Nguyễn Đình Toàn. Có những ngày vui, bà luôn miệng huýt sáo những bài nhạc của ông. Âm thanh vang lên từ trong tiềm thức của bà. Đó là một khung trời riêng của bà mà không sức mạnh bệnh tật nào có thể bước vào, chiếm đoạt.

            Từ ngày biết bệnh của bà trở nặng, ông không cằn nhằn như khi còn ở Việt Nam nữa. Từ chỗ trú riêng cho mình một cõi, ông bước vào việc gánh vác tất cả chuyện trong nhà, một cách rất tự nhiên. Ông từ chối những cuộc gặp gỡ bạn bè ở quán cà-phê bằng câu nói: “Thôi, đến nhà anh pha cho uống. Anh không bỏ chị ở nhà được”.

            Ngày xưa, khi ông bước đến bàn ăn, cơm canh nóng đã có sẵn do bà chuẩn bị. Ngày nay, ông xới từng chén cơm cho bà, để bên cạnh đó tấm khăn giấy, đôi đũa, ly nước, và cả cây tăm, rồi đưa bà ngồi vào ghế. Ông ngồi bên cạnh, dùng cơm và nói với bà đủ chuyện, không cần biết bà có nghe, có hiểu hay không.

            Đêm nhạc chủ đề Một Ngày Sau Chiến Tranh vinh danh dòng nhạc Nguyễn Đình Toàn diễn ra tại Westminster, California ngày 13 tháng 4 năm 2019, không thể thiếu hình bóng của người phụ nữ đời ông. Bà lặng lẽ, vô hồn ngồi trên chiếc xe lăn bên cạnh ông. Có thể bà không hiểu vì sao đêm đó lại đông người như thế? Vì sao ánh đèn chói chang như thế? Và cũng không hiểu trên sân khấu kia đang nói về điều gì mà người ta vỗ tay vang rền như thế? Bà lơ đãng đưa mắt nhìn vào không gian ấy, thỉnh thoảng lại đòi về, và nói những điều gì đó chắc chỉ có bà mới hiểu. Vậy mà mỗi khi một ca khúc của ông vang lên, bà hướng về sân khấu, vẫn ánh mắt đó, nhưng sáng hơn, vui hơn.

           Ngày bà ra đi trong bệnh viện, ông không hay biết. Gia đình chưa dám cho ông hay. Cho đến mãi tận chiều hôm sau, được tin, ông bình tĩnh đến lạ lùng.

          Chiều hôm ấy, ông ngồi lặng lẽ trước bàn thờ chưa kịp làm di ảnh của vợ, mắt nhìn vào khoảng không với những làn khói hương váng vất. Nhân dáng gầy gò của ông như viết lên hai chữ CÔ ĐỘC giữa không gian nhỏ còn vương đầy hơi ấm của bà.

          Vì bà ra đi quá đột ngột, chưa kịp làm di ảnh, ông lục tìm được mấy tấm hình cũ: “Mẹ của con có mấy tấm hình đẹp lắm. Mẹ của con đẹp như hoa hậu”. Rồi ông bật khóc. Hình như rất hiếm khi ông khóc trong đời. Những ngày tháng tù đày khổ ải, ông không khóc. Những ngày tháng sau 1975 bị tước đi quyền tự do sáng tác của người nghệ sĩ, ông không khóc. Những ngày tháng phải viết lời nhạc, câu thơ bằng cây bút chì vụn trong ngục tù, rồi xoá nhanh, ông không khóc. Ngày bước chân xuống tàu rời quê hương, mang theo nỗi sợ hãi khôn cùng vì đối diện với sương đêm và nỗi chết, ông cũng không khóc. Ông chỉ âm thầm tự nói:

                     “Mai tôi đi, tôi đi vào sương đêm
                     Sương rất độc, tẩm vào người nỗi chết
                      Quê hương ta sống chia giòng vĩnh biệt
                      Chảy về đâu những nước mắt đưa tin…”
                     (Mai Tôi Đi – Nguyễn Đình Toàn)

        Nhưng hôm nay, khi một mình đối diện mình, trong ngôi nhà không còn bà bên cạnh, ông đã khóc. Ông khóc mà không biết mình khóc, như Phạm Thái tráng sĩ từng tự hỏi lòng:


                     “Này Tiêu Sơn chuông chùa nào nín lặng,
                      Hãy chiêu hồn cho đội mộ nàng lên.
                      Nàng chết rồi ư?
                      Ta khóc rồi ư?”
                      (Khúc Ca Phạm Thái – Nguyễn Đình Toàn)
       Cả cuộc đời, ông có việc đi đâu thì đi, gặp gỡ bạn bè bao lâu cũng được, nhưng về nhà thì phải có bà. Nếu không, ông bứt rứt, khó chịu, tựa như “người không có chỗ trú thân. Tách rời ra khỏi quê hương, từ bỏ quê hương thật của mình thì chỗ khác không thể nào thay thế được đâu” – Ông đã nói như thế. Giờ đây, câu mà ông hay nói nhất với những người con của mình là: “Bây giờ nhìn đâu cũng thấy mẹ của con”.

        Hơn 20 năm qua, bà không còn có thể trò chuyện, đáp lời những câu chuyện ông kể, nhưng bà đã là một “quê hương thu nhỏ” của ông, như cách ông từng định nghĩa về tình yêu: “Tình yêu giữa người đàn ông và đàn bà, thu nhỏ là tình yêu, nhưng phóng lớn lên nó là tình hoài hương”. Ngày ông phải xuống tàu lìa bỏ quê hương, ông kể rằng “có cảm tưởng như mình đứng không vững nữa, mình chênh vênh trên một cái gì đó”, và tự nhủ: “Từ đó trở đi chắc là mình đứng không vững nữa, quả thật là như vậy”.

       Rồi khi bà đi xa. Thêm một lần nữa, ông phải lìa xa “quê hương” của mình.

Trịnh Anh Khôi

Sunday, April 20, 2025

Tỷ phú Elon Musk rơi lệ trên sóng truyền hình khi nhắc đến Việt Nam – Chuyện gì đã xảy ra?

Sự việc trong video nầy, tôi đã hỏi trí tuệ nhân tạo AI ChatGPT, và sau đây là ChatGPT đã trả lời: 

1. Dự án Điện mặt trời tài trợ bởi UNDP và GEF

  • Tên dự án: Chương trình điện mặt trời cho vùng sâu, vùng xa không có điện lưới quốc gia.

  • Thời gian khởi động: Giai đoạn nghiên cứu và khởi đầu khoảng đầu những năm 1990, trong đó có nhiều hoạt động được triển khai từ năm 1993.

  • Đơn vị tài trợ: Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) và Quỹ Môi trường Toàn cầu (GEF).

  • Đơn vị triển khai tại Việt Nam: Trung tâm Năng lượng mới và Năng lượng tái tạo – Viện Năng lượng (thuộc Bộ Năng lượng, sau này là Bộ Công Thương).

  • Mục tiêu: Thử nghiệm lắp đặt các hệ thống điện mặt trời (PV) độc lập cho các hộ dân vùng sâu, vùng xa – nơi không có khả năng tiếp cận lưới điện quốc gia.

  • Kết quả: Một số hệ thống nhỏ (thường dưới 100W) được lắp đặt cho các hộ dân để phục vụ nhu cầu chiếu sáng và dùng đài radio. Từ đó đánh giá tính khả thi về mặt kỹ thuật, tài chính và xã hội.


Đọc những gì ChatGPT trả lời ở trên, tôi nghĩ những gì trong video nầy là có thật. Click vào video sau đây để xem. tth 

Friday, April 18, 2025

Liên khúc Duyên Quê, Tình Ca Trên Lúa - Hương Lan, Lê Minh Trung

 

Click Vào Đây - Liên khúc Liên khúc Duyên Quê, Tình Ca Trên Lúa/Ca sĩ Hương Lan, Lê Minh Trung

Tuesday, April 15, 2025

Nữ phi hành gia ViệtNam Amanda Nguyễn.

 

Phi hành gia Amanda Nguyễn.

Blue Origin thông báo chuyến bay có người lái thứ 11, NS-31, sẽ được phóng từ Launch Site One ở Tây Texas vào thứ Hai, ngày 14 tháng 4, 2025. Nhiệm vụ có sự tham gia của Aisha Bowe, Amanda Nguyễn, Gayle King, Katy Perry, Kerianne Flynn và Lauren Sánchez.

Ngày April 14, 2025 phi thuyền được phóng lên, chuyến bay kéo dài 11 phút, trong đó có 4 phút, các phi hành gia có cơ hội cảm biết mất trọng lực. Chuyến bay gồm 6 phi hành gia, toàn nữ, trong đó có Amanda Nguyễn người ViệtNam.

Amanda Nguyn là một nhà hoạt động dân quyền người Mỹ gốc Việt tiên phong và nhà nghiên cứu du hành vũ trụ sinh học đã đi vào lịch sử vào ngày 14 tháng 4 năm 2025, khi trở thành người phụ nữ Việt Nam đầu tiên du hành vào không gian. Cô đã tham gia vào sứ mệnh NS-31 của Blue Origin, đáng chú ý vì là chuyến bay vũ trụ có phi hành đoàn toàn nữ đầu tiên kể từ sứ mệnh solo của Valentina Tereshkova vào năm 1963

Nữ Phi Hành Gia Amanda Nguyễn là CEO của Rise.

Rise (tổ chức phi chính phủ)


Rise, Inc. là một tổ chức phi chính phủ về quyền công dân của Hoa Kỳ làm việc với nhiều cơ quan lập pháp tiểu bang và Quốc Hội Hoa Kỳ để thực hiện dự luật về quyền của những người sống sót sau vụ tấn công tình dục. Người sáng lập và chủ tịch của tổ chức này là Amanda Nguyên. 

Vào tháng 10 năm 2016, Đạo Luật Quyền của Người sống sót sau vụ xâm hại tình dục đã được ban hành tại Hoa Kỳ. 

Lịch sử

Vào tháng 11 năm 2014, Nguyen đã thành lập Rise, một tổ chức phi lợi nhuận nhằm bảo vệ quyền công dân của những người sống sót sau vụ tấn công tình dục và hiếp dâm. Năm 2013, cô đã bị cưởng hiếp khi đang theo học đại học ở Massachusetts. Nguyen đã lãnh đạo tổ chức này trong thời gian rảnh rỗi cho đến tháng 9 năm 2016. Mọi người làm việc với Rise đều là tình nguyện viên, và tổ chức đã gây quỹ thông qua GoFundMe. Nguyen giải thích rằng tổ chức được đặt tên là Rise để "nhắc nhở chúng ta rằng một nhóm nhỏ những công dân chu đáo, tận tâm có thể đứng lên và thay đổi thế giới." 


Click vào video để xem chuyến bay.


./.

Monday, April 14, 2025

Đà Lạt Hoàng Hôn - Lê Thu Uyên


 Click Vào Đây - Nhạc phẩm Đà Lạt Hoàng Hôn - Lê Thu Uyên

Wednesday, April 9, 2025

CON MUỐN VỀ - Đỗ Thủy

Click Vào Đây - Nhạc phẩm CON MUỐN VỀ/Ca sĩ Đỗ Thủy

Sunday, April 6, 2025

Nhà Khoa Học Nghe Thấy Âm Thanh Phát Ra Từ Một Lỗ Trên Băng, Khi Xuống Dưới, Điều Gây Sốc Đã Xảy Ra

Click Vào Đây - Nhà Khoa Học Nghe Thấy Âm Thanh Phát Ra Từ Một Lỗ Trên Băng, Khi Xuống Dưới, Điều Gây Sốc Đã Xảy Ra

Saturday, April 5, 2025

BẾN ĐỢI - ĐẶNG KIM YẾN

 Click Vào Đây - Nhạc phẩm BẾN ĐỢI /Ca sĩ ĐẶNG KIM YẾN 

Tuesday, April 1, 2025

MÀU DA OAN NGHIỆT - Kate Chopin

 

Kate Chopin

MÀU DA OAN NGHIỆT

“Em trai tôi và tôi đã bị xét xử từ lâu rồi. Chúng tôi vừa mới chào đời. Chúng tôi bị xét xử vì tổ tiên chúng tôi đã bị kết tội và kết án phải sống trong một thế giới có định kiến ​​về chủng tộc.”…

“Cho dù giờ đây các ngài có tha bổng tôi, bản án kia cũng vẫn còn hiệu lực. Nó sẽ còn hiệu lực cho đến ngày tôi nhắm mắt, xuôi tay rời khỏi thế giới này.”

(Trích “Hãy để ngày ấy lụi tàn” của Gordon Gerald)

Và giờ đây, hơn 2 thế kỷ sau, mặc dù chủ nghĩa phân biệt chủng tộc đã bị xóa bỏ trên văn bản, nhưng nó vẫn âm ỉ hoặc “ẩn náu” trong các xung đột xã hội, dù cố ý hay vô ý. Chúng ta vẫn hy vọng rằng “ngày đó sẽ phai mờ” để mọi người thuộc mọi màu da luôn được sống vui vẻ, hòa bình và hạnh phúc trong một thế giới đầy tình người, đức tin, tình yêu và hy vọng.

Kate Chopin (1850–1904) tác giả của câu chuyện “Màu da oan nghiệt”. Bà sinh ra và lớn lên trong thời Nội chiến Hoa Kỳ (1861–1865), hiểu rõ những xung đột dẫn đến chiến tranh, chế độ nô lệ và phân biệt chủng tộc. Bà đã viết một câu chuyện thực sự bi thảm và đau lòng:

MÀU DA OAN NGHIỆT

Đó là một ngày đẹp trời và vui vẻ, bà Valmonde lái xe đến L'Abri để thăm Désirée và đứa con mới sinh của cô.

Cô bật cười khi nghĩ đến Désirée và đứa bé. Thấm thoát Désirée mới còn là một đứa trẻ thơ mà bây giờ đã tay ẵm tay bồng rồi. Cô nhớ lại lần chồng cô tìm thấy Désirée dưới cây cột đá cẩm thạch trước cổng trang trại Valmonde. Anh đã bế cô bé lên và cô bé đã thức dậy và bi bô "Dada" thật dễ thương. Một số người nghĩ rằng cô bé đã bị lạc vì cô bé đã đến tuổi tập đi. Những người khác tin rằng cô bé đã bị một nhóm người nhập cư Texas bỏ rơi khi họ đang băng qua Louisiana trên phà tại Coton Mais, ở vùng hạ lưu của các đồn điền bông. Bất chấp tất cả các lý thuyết và tin đồn, Désirée được coi là một món quà quý giá, một phước lành thiêng liêng mà Chúa đã ban cho gia đình Valmonde vì cô bé hiếm muộn và không thể sinh con. Sau đó, cô bé lớn lên xinh đẹp, dịu dàng, tốt bụng, được mọi người yêu mến và tôn thờ như một nữ thần đáng yêu của Valmonde.

Và cũng thật kỳ diệu khi 18 năm sau, Désirée cũng ngủ ngay dưới bóng cây cột đá cẩm thạch đó, khiến Armand Aubigny phải lòng ngay từ cái nhìn đầu tiên. Đó thực sự là tình yêu nồng cháy của gia đình Aubigny, một tình yêu sét đánh, một phát súng xuyên tim khi họ yêu nhau. Và một điều kỳ diệu nữa là tại sao Armand không biết Désirée trước đó, khi cô còn là một đứa trẻ?

Khi Armand lên 8 tuổi, cha của anh đã đưa anh trở về từ Paris vì mẹ anh đã qua đời.

Lần đầu tiên Armand gặp Désirée ở cổng trang trại Valmonde, cảm giác yêu đương và say đắm ấy đến thật nhanh chóng và mạnh mẽ – dữ dội như tuyết lở, sôi sục như cháy rừng và dữ dội như những cơn bão không thể ngăn cản…!

Ông Valmonde cũng thành thật nói rằng ông không biết nguồn gốc của Désirée, ông chỉ nuôi nấng và yêu thương cô. Armand quá yêu đến nỗi không quan tâm đến dòng dõi của Désirée. Ông Valmonde nhắc nhở ông rằng cô cũng không biết nguồn gốc hay phả hệ của mình.

Armand không cần biết, vì khi anh kết hôn với Désirée, anh sẽ đặt cho cô cái tên Aubigny, một gia đình quý tộc và được kính trọng ở Louisiana. Armand đã đặt mua đồ cưới từ Paris và phải kiên nhẫn chờ đợi mọi thứ đến để anh có thể kết hôn với Désirée.

Bốn tuần đã trôi qua, và Madame Valmonde vẫn chưa nhìn thấy Désirée hay đứa bé. Như thường lệ, khi bà lái xe vào L'Abri, bà đã bị sốc bởi cảnh tượng buồn thảm đến thế nào!

Trong nhiều năm, không ai nhìn thấy khuôn mặt của bà chủ, - mẹ của Armand - người vợ yêu dấu mà Aubigny đã kết hôn và chôn cất tại Paris; bà yêu quê hương của mình đến nỗi bà không bao giờ muốn rời xa nó, thậm chí không muốn đến thăm quê hương của chồng mình... Xa xa, một tòa nhà được quét vôi vàng với những ban công được xây dựng xung quanh. Những cây sồi già mọc trước nhà vươn những cành cây to, rậm rạp để che bóng mát, nhưng trông chúng thật buồn và u ám!

Con trai của Aubigny, mặc dù còn trẻ, đã áp đặt những luật lệ hà khắc đối với nô lệ trong trang trại, điều này luôn nhắc nhở họ về niềm vui của những ngày xưa khi Aubigny còn sống; vì anh ấy hào phóng, tốt bụng và khoan dung.

*****

Người mẹ trẻ dần hồi phục sau khi sinh, và Désirée cảm thấy thư giãn và thoải mái khi nằm trên ghế sofa. Cô ấy xinh đẹp và duyên dáng trong chiếc váy lụa trắng mỏng với ren mềm mại. Cậu bé nằm trong vòng tay cô, mặt áp vào bầu ngực ấm áp của cô, ngủ say. Người vú nuôi ngồi bên cửa sổ, quạt cho cậu bé bằng chiếc quạt lông công.

Bà Valmonde đến bên Désirée, cúi xuống, hôn cô bé một cách dịu dàng, rồi quay lại nhìn đứa trẻ.

“Ôi! Cậu bé ơi… có chuyện gì vậy?!”

Cô ấy kêu lên vì ngạc nhiên. Vào thời điểm đó, tiếng Pháp được nói ở điền trang Valmonde.

“Tôi biết là cô sẽ ngạc nhiên!” Désirée mỉm cười nói:

“Nó càng lớn, nó càng giống một con lợn sữa! Hãy nhìn chân và tay của nó, và móng của nó – nó có móng! Nhìn này, Zandine đã cắt móng cho nó sáng nay, đúng không, Zandine?

Zandine cúi đầu:

“Vâng, thưa bà!”

Desiree tiếp tục:

“Nó khóc to quá! Armand có thể nghe thấy từ xa, cho đến tận túp lều của La Blanche.”

Bà Valmonde không rời mắt khỏi đứa trẻ. Bà bế đứa trẻ lên và đi đến cửa sổ sáng để nhìn rõ hơn. Bà quan sát đứa trẻ thật kỹ, rồi nhìn Zandine như muốn hỏi, nó giống ai mà da lại đen như thể bị phơi nắng trên cánh đồng bông thế?

“Đúng vậy, thằng bé đã lớn và thay đổi rồi,” Bà Valmonde nói, nhẹ nhàng đặt đứa trẻ vào tay bà.

“Vậy Armand đã nói gì?”

Nghe câu hỏi của bà Valmonde, Désirée nở nụ cười rạng rỡ:

“Ồ, Armand tự hào và hạnh phúc khi được làm cha, tôi tin vậy, vì anh ấy có một đứa con trai, người sẽ mang họ Aubigny – và anh ấy nói rằng anh ấy sẽ yêu đứa bé nhiều như vậy nếu đó là một đứa con gái. Nhưng tôi biết không phải vậy, anh ấy nói vậy để làm tôi vui. Mẹ biết mà,” cô nói thêm, và ra hiệu cho mẹ cô nghiêng người lại gần cô và thì thầm:

“Anh ấy chưa phạt ai từ khi đứa bé chào đời. Ngay cả Negrillon cũng giả vờ đốt chân để ở nhà, tôi lo cho anh ấy, nhưng Armand chỉ cười và nói Negrillon là một “kẻ giả vờ” rất giỏi!… Ôi, mẹ ơi, con vui quá!”

Désirée đã đúng, việc kết hôn rồi có một cậu con trai đẹp trai, đáng yêu đã khiến Armand bớt kiêu ngạo, độc đoán và hống hách. Những thay đổi này khiến Désirée dịu dàng, tốt bụng cảm thấy vui vẻ, hạnh phúc và yêu chồng hết lòng. Khi chồng cau mày, cô run rẩy nhưng vẫn yêu anh. Khi chồng mỉm cười, cô cảm thấy như đó là một phước lành của Chúa, bởi vì khuôn mặt đẹp trai, mạnh mẽ của Armand đã bớt cau có và cau có hơn kể từ ngày anh gặp và yêu cô.

Nhưng khi đứa con của cô được ba tháng tuổi, Désirée cảm thấy như thể một bầu không khí rất ngột ngạt đang đe dọa sự bình yên của người mẹ và đứa con. Lúc đầu, nó mơ hồ và không rõ ràng… Một nỗi lo lắng và một điều bí ẩn đang được thì thầm giữa những người nô lệ; sau đó là những chuyến thăm bất ngờ của những người hàng xóm sống xa. Và tệ hơn nữa, thái độ của chồng cô thay đổi khủng khiếp đến mức cô không dám hỏi tại sao. Khi Armand nói chuyện với cô, anh ta quay đi và không còn nhìn cô một cách dịu dàng và trìu mến nữa. Armand thường xuyên vắng nhà, và khi anh ta ở nhà, anh ta sẽ tìm cách tránh cô và đứa bé mà không có lý do. Thậm chí còn bi thảm hơn, Armand đối xử với những người nô lệ trên đồn điền một cách tàn nhẫn và độc ác như Satan. Désirée phải chịu đựng mọi thứ đã xảy ra và cô ấy bối rối và sợ hãi.

Một buổi chiều nóng nực, cô ngồi trong phòng, mặc một chiếc áo choàng mỏng bằng vải voan, cô đưa tay vuốt vài lọn tóc trên trán, mái tóc nâu vàng của cô buông xõa trên đôi vai trắng trẻo. Đứa con của cô, một cậu bé cởi trần, đang ngủ trên chiếc giường gỗ hồng sắc chạm trổ, sang trọng và uy nghiêm như một ngai vàng có màn trướng. Đột nhiên quay lại, cô bắt gặp hình ảnh đứa con lai của La Blanche (cậu có 1/4 dòng máu đen) - cậu cũng cởi trần - đang đứng gần đó, cầm một chiếc quạt lông công, quạt cho đứa con của cô. Cô nhìn đứa con của mình một cách vô hồn và buồn bã, cố gắng xua tan cảm giác buồn bã đang lớn dần trong lòng. Cô nhìn đứa con của mình rồi nhìn cậu bé lai, nhìn qua nhìn lại. "À!" Tôi hiểu rồi, điều đó quá rõ ràng, tại sao cô lại không nghĩ đến điều đó...! Cô cảm thấy lạnh và như thể có một lớp sương mù lạnh lẽo đang bao quanh cô.

Cô nghẹn ngào, muốn nói chuyện với cậu bé lai, nhưng không thể thốt ra một lời. Đột nhiên cậu bé nghe thấy có người gọi tên mình, cậu ngẩng đầu lên, bà chủ nhà ra hiệu cho cậu đi ra cửa. Cậu nhẹ nhàng đặt chiếc quạt lông công xuống, ngoan ngoãn rón rén đi đến cửa để không đánh thức đứa trẻ đang ngủ.

Désirée ngồi bất động, nhìn chằm chằm vào đứa con của mình, khuôn mặt đầy sợ hãi…!

Đúng lúc đó, Armand bước vào phòng, không thèm để ý đến vợ mình, anh ta đi thẳng đến bàn làm việc và lục lọi một số giấy tờ.

“Armand,” cô gọi tên chồng mình bằng giọng nói xuyên thấu trái tim cô, nhưng anh không nghe thấy. “Armand,” cô gọi lần nữa. Cô ngồi dậy và loạng choạng đi về phía chồng mình. “Armand,” tim cô đập nhanh, cô nắm lấy tay anh: “Hãy nhìn đứa con của chúng ta. Điều này có nghĩa là gì? Hãy nói cho em biết.”

Armand lạnh lùng hất tay vợ ra. “Nói cho tôi biết, điều đó có nghĩa là gì?”

Desiree kêu lên đau đớn...!

Armand thì thầm:

“Điều đó có nghĩa là cậu bé không phải người da trắng; và… điều đó có nghĩa là bạn cũng không phải người da trắng.”

Một lời buộc tội vô lý mà Désirée đã dũng cảm phủ nhận ngay lập tức:

“Không đúng, em là người da trắng! Nhìn tóc em kìa, tóc em màu nâu, còn mắt em thì màu xám. Armand, em vẫn thích nhìn đôi mắt xám của anh. Da anh cũng trắng nữa.” Nắm lấy cổ tay chồng:

“Nhìn này, tay tôi còn trắng hơn tay anh, Armand.”

Sau đó cô cười trong đau đớn và oán giận.

“Ồ, trắng như La Blanche!”

(La Blanche là một cô gái da trắng nhưng mẹ cô thực chất là một nô lệ da đen). Armand trả lời một cách tàn nhẫn rồi quay đi và bỏ đi…

Désirée tê liệt trong lòng. Cô nhanh chóng viết một lá thư cho Madame Valmonde.

“Mẹ ơi, họ nói con không phải người da trắng. Armand cũng nói vậy. Xin Chúa hãy nói với họ rằng điều đó không đúng. Mẹ biết điều đó không đúng! Mẹ ơi, con muốn chết, con phải chết, con không thể sống trong đau khổ mãi được!”

Bà Valmonde trả lời bức thư rất ngắn gọn:

“Désirée, con yêu của mẹ, hãy về nhà, hãy quay lại Valmonde với mẹ, mẹ sẽ luôn yêu con. Hãy đưa cháu của con về với bà nữa nhé!”

Khi Désirée nhận được lá thư của Madame Valmonde, bà mang nó đến cho chồng đọc, và để nó trên bàn. Sau đó, bà ngồi đó như một bức tượng... bất động và nhợt nhạt.

Armand im lặng, lạnh lùng lướt qua lá thư rồi không nói gì.

"Em có thể đi được không, Armand?" cô hỏi bằng giọng rõ ràng nhưng đầy mong đợi.

“Được rồi, đi thôi!”

“Anh muốn em đi không?”

“Đúng, tôi muốn anh biến đi!”

Armand cảm thấy cay đắng và cay đắng, nghĩ rằng Đấng toàn năng đã quá tàn nhẫn và bất công. Trong mọi trường hợp, anh trả thù bằng cách đâm vào trái tim đau khổ của vợ mình và hành hạ cô để trút giận. Hơn nữa, anh không còn yêu cô nữa, vì anh mang mối hận vì đã cưới cô và trao cho cô cái tên đẹp đẽ, đáng kính của gia tộc Aubigny. Cô mang trong mình dòng máu của một nô lệ da màu, điều mà anh không biết.

Désirée quay đi trong đau đớn như thể bị đấm vào mặt, cô lặng lẽ bước về phía cửa với hy vọng chồng cô sẽ gọi cô lại…

“Tạm biệt, Armand.”

Cô ấy nói như thể đang cầu xin.

Armand vẫn im lặng... Đây là cơ hội cuối cùng để anh làm hòa với vợ, nhưng trái tim anh lạnh lùng và thờ ơ.

Désirée đi tìm con, Zandine và đứa bé đang tận hưởng làn gió mát trên ban công. Cô lấy đứa trẻ từ tay y tá mà không giải thích một lời; sau đó cô bế đứa trẻ đi, biến mất dưới bóng râm của những cây sồi già....

Đó là một buổi chiều tháng Mười; mặt trời vừa lặn và những người nô lệ đang bận rộn thu hoạch bông trên cánh đồng.

Désirée vẫn mặc chiếc áo choàng mỏng, đôi dép xăng đan, mái tóc xõa và ánh nắng buổi chiều làm mái tóc mềm mại, đẹp đẽ của cô tỏa sáng. Cô không đi ra đường chính, con đường đến trang trại Valmonde, mà băng qua cánh đồng hoang, nơi có nhiều rễ cây, bụi rậm, gai và cỏ dại mọc hoang dã…

Nàng mang đứa con của mình vào sâu trong đám lau sậy của đầm lầy, vào khu rừng độc và... không bao giờ quay trở lại...!


***

Vài tuần sau, một sự kiện xảy ra tại L'Abri khiến nhiều người tò mò. Giữa sân sau, Armand ngồi bên một đống lửa lớn, xung quanh là khoảng nửa tá nô lệ, theo lệnh của chủ nhân, người có nhiệm vụ giữ cho ngọn lửa cháy sáng…

Một chiếc nôi nhỏ xinh được ném vào giàn thiêu cùng với quần áo, tã lót, mũ, găng tay của em bé... Và tất cả quần áo nhung, lụa và ren quý hiếm dành cho tầng lớp thượng lưu và người giàu...

Thứ cuối cùng bị đốt là một chồng thư, những lá thư mà Désirée đã gửi cho Armand trong thời gian họ yêu đương và đính hôn. Cuối cùng, có một lá thư bị kẹt ở dưới cùng của ngăn kéo, Armand nhặt nó lên… nhưng nó không phải của Désirée; đó là một lá thư rất cũ mà mẹ Armand đã viết cho cha anh. Armand mở nó ra và đọc: “Tình yêu của tôi, con luôn cảm ơn Chúa vì đã ban cho con một người chồng yêu thương, bảo vệ và che chở cho con”: “Nhưng trên hết những điều tốt đẹp này, ngày và đêm, con thầm cảm ơn Chúa vì đã ban phước và bảo vệ Armand, đứa con của chúng ta; con sẽ không bao giờ biết rằng người mẹ đã sinh ra con, người yêu thương con, lại mang trong mình dòng máu nô lệ da màu!”

Armand bị sốc và choáng váng…!!!

Đứa con của Désirée / bởi Kate Chopin

Gió Vi Vu Phỏng Dịch

Kate Chopin