Thiếu nữ Việt Nam

Thiếu nữ Việt Nam
quá dễ thương

Wednesday, November 6, 2024

Cúng giỗ bà xả 2024 - Thái Huỳnh

November 6, 2024 là giỗ thứ 15 cho bà xả tôi, đúng lúc tôi đang ở Sàigòn. Thường thì khi tôi ở Sàigòn, tôi cúng giỗ cho bà xả ở chùa ở Bình Thạnh. Khách sạn tôi đang ở nằm trên đường Lê Thánh Tôn, cạnh chợ Sàigòn, cách chùa nấy quá xa. Nên tôi tìm chùa quanh chợ Sàigòn cho gần. 

Tôi chợt nhớ lúc tôi mới về Sàigòn và tôi có cúng giỗ cho bà xả tôi ở một chùa ni, gần ngã sáu Phù Đỗng Quận 1. Tôi tìm đến chùa nầy gặp Sư Cô trù trì. Tôi nhắc lại khoảng mười năm trước, nhưng Sư Cô không nhớ tôi.

Mặc dù Sư Cô Trù Trì không nhớ tôi, nhưng Sư Cô rất niềm nở lo cho tôi. Tôi xin chùa lo cho tôi mâm cơm cúng vong và hoa quả cúng Phật và cúng Vong. Sư Cô nhận lời và Sư Cô cho tôi biết giá tiền cho tất cả. Tôi mừng quá. Tôi đưa tiền cho Sư Cô liền và đưa thêm 500 ngàn. Ngoài ra tôi hỏi và Sư Cô cho tôi biết, chùa có tất cả 4 Sư Cô. Tôi hứa sẽ lo 4 bao thơ cúng dường cho 4 Sư Cô. Sư Cô vui cười. Ngoài ra, khi cúng Phật ở Chánh Điện xong, tôi có cúng Chùa trong thùng công đức. 

Đúng ngày giỗ, Sư Cô Trù Trì có việc phải đi, nên Sư Cô phó trù trì cúng vong và một Sư Cô trẻ cúng Phật. Hai Sư Cô cúng thật tuyệt vời và tôi mừng quá sức. Tôi tin rằng vong linh bà xả tôi vui lắm. Ngoài ra chùa mua hoa quả nhiều và loại đắc tiền. Thức ăn thì nhiều và ngon. Tôi cảm thấy hên và vui quá. 

Chánh Điện.

Tôi đang cúng Phật trước khi cúng vong.


Bàn cúng vong của chùa nầy, riêng tư và khang trang quá.
Mặc dù chùa lo hoa quả, nhưng tôi tìm mua thêm trái hồng mềm ở tận chợ Bà Chiểu Gia Định. Vì ngày xưa bà xả tôi mê ăn trái hồng mềm.

Tôi đang cúng vong.
Tôi bị đau đầu gối phải, phải mang nẹp sắt, nên Sư Cô cho tôi ngồi ghế. 

Bên trái: vợ chồng Tuấn, bạn trong sân tennis.
Bên phải: Tôi và anh Minh. Anh Minh là bạn tennis. Anh cũng là chủ hotel ở ngã sáu Phù Đổng mà ngày xưa tôi ở. Anh cũng là người giới thiệu tôi chùa nầy.

Chùa nầy có phòng ăn rất khang trang.

Cúng xong Sư Cô dọn cơm cho chúng tôi ăn. Cơm chùa nấu rất ngon.
./.


Tuesday, November 5, 2024

BẾN ĐỢI - Bạch Trà

 Click Vào Đây - Nhạc phẩm BẾN ĐỢI/Ca sĩ Bạch Trà

Friday, November 1, 2024

Nước Mỹ: Không phải Tạm Dung - Lệ Hoa Wilson

 Lệ Hoa trong chuyện, người đẹp Cần Thơ, lăng xã, xoay xở kiếm tiền nuôi 7 đứa con và người chồng Mỹ, trong cái thưở ban đầu đến Mỹ của ngày 30 tháng 4, 1975. Tôi nể phục bà, nhất là bà khuyên chồng về hưu lính, vì cứ di chuyển theo lính hoài thì 7 đứa con làm sao học hành và rồi chúng sẽ không ra gì! Bà có tầm nhìn hay quá! Bà làm người Việt Nam thơm lây. tth 

  

Nước Mỹ: Không phải Tạm Dung - Lệ Hoa Wilson


Tôi người Việt Nam. Ông xã người Mỹ. Chúng tôi gặp nhau  và thành hôn năm tôi 30 tuổi, đã một lần ly dị và có hai đứa con riêng. Ông xã thì cũng 30 tuổi và là trai tơ.

Vùng I chiến thuật lấy Ðà Nẵng (nơi tôi và ông xã gặp nhau) làm thủ phủ nên có rất nhiều bộ chỉ huy trong đó có nhà thương của Hải quân Mỹ là trung tâm y tế cho tất cả binh sĩ Mỹ trong vùng. Qua khỏi ngã tư Mỹ Khê, quẹo mặt để đi vào núi Non Nước, nằm về phía tay mặt là nhà thương. Tôi đoán nó chiếm trọn ít nhứt là năm mẫu đất với các trung tâm y tế mổ xẻ, chữa trị đủ loại, nhà ở cho binh sĩ và dĩ nhiên là một nhà xác! Một nhà xác không có nhiều nước mắt vì thân nhân ở mãi mười ngàn dặm xa!

Trước mặt nhà thương là một bãi đáp trực thăng để tải các thương binh, các chiến sĩ tử trận từ các chiến trường vùng I. Mỗi lần trực thăng đáp xuống thì con đường xe chạy được các quân cảnh Mỹ chặn lại, từng chiếc cáng được vội vã khiêng ra chạy thẳng vào cổng chánh, có người sẽ tỉnh lại với một cái chân nằm đâu đó trong lá rừng rậm rạp, có người sẽ được trở về quê hương dưới lá cờ phủ kín, có người sẽ ngậm ngùi từ biệt những giấc mơ vì cánh tay đã mất, gương mặt đã bị tàn phá, linh hồn đã bị tổn thương…

Vì ông xã thuộc binh chủng hải quân và đóng quân trong nhà thương nên tôi đã có biết bao lần phải ngừng xe, tắt máy, ngồi nhìn những bước chân vội vã, những gương mặt chịu đựng, những ánh mắt buồn hiu của những người tải thương. Mỗi khi có một cái cáng phủ cờ Việt Nam hay Mỹ thì những người Mỹ xuống xe đứng nghiêm chỉnh đưa tay chào vĩnh biệt. Tôi ít khi thấy thương binh Việt Nam, có thể vì họ được chuyển tới một trung tâm y tế khác. Chỉ có một lần tôi thấy một cái cáng được khiêng ra khỏi cửa trực thăng, lá cờ Việt Nam Cộng hòa phủ kín. Tôi không thấy mặt cũng như binh chủng của tử sĩ nhưng một người đàn bà đầu tóc rũ rượi, cánh tay quấn băng treo vào vai còn đẫm máu đang lảo đảo nhảy ra khỏi cửa trực thăng. Tóc chị trước kia chắc được cột lại bằng dây thun, nay chỉ còn một vài lọn lỏng lẻo trên đỉnh đầu còn bao nhiêu thì thả dài rối rắm xung quanh mặt.

Bạn ơi, hình ảnh đau thương nhứt không phải là cái cáng có người chết nằm phủ kín lá cờ vàng chói, không phải dòng nước mắt đầm đìa trên mặt người sống sót mà là một miếng băng vải mỏng dùng để quấn vết thương. Nó bị dơ vì đất và máu. Nó chỉ dài bằng một chiếc khăn mùi soa. Nhưng nó lại được người vợ trân trọng để ngang lên trán, dùng một cọng lạt dừa cột vòng lại sau đầu. Mảnh khăn tang được vội vã quấn tạm thời nhưng sự ly biệt thì chắc chắn ngàn trùng xa cách. Người thiếu phụ Việt Nam đang để tang cho người chồng chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc!

Tôi không ra khỏi xe chào vĩnh biệt người chiến binh nhưng gục mặt vào tay lái nước mắt tuôn rơi khóc thương cho những đứa trẻ đang quẩn quanh trong thôn xóm chờ cha trở lại. Tôi tưởng tượng tới lúc gia đình nghe tiếng chuông reo, mở cửa ra và thấy một người binh sĩ đứng trước mặt với cái nón cầm trên tay. Người mẹ ở ngàn dặm xa kia có ngã xuống vì trái tim tan nát?… Một cái gì đó nhen nhúm trong tâm hồn tôi. Chiến tranh tiếp diễn cho tới một lúc nào đó thì hòa ước được ký, quân đội Mỹ rút đi.

Anh nấn ná xin ở lại Việt Nam và là nhóm binh sĩ cuối cùng ra khỏi phi trường Tân Sơn Nhất vào đầu năm 73. Tháng 6, 1973, tôi sanh đứa con trai đầu lòng cho anh. Tháng 9 năm 74 tôi qua Mỹ thăm anh tiện thể thăm dò chuyện xuất nhập cảnh. Chúng tôi dự định chờ anh ra khỏi quân đội và sẽ về sinh sống tại Việt Nam. Ðiều kiện để tôi nói “I do” là chúng tôi phải ở Việt Nam và sẽ có bảy đứa con. Tôi nào biết trời cao đất rộng là gì, chỉ biết rằng tôi rất ham con và bảy đứa là một con số chấp nhận của gia đình VN, đâu nghĩ rằng đối với người Mỹ hai đứa là lý tưởng, ba đứa là chau mày, bốn đứa là nổi điên, năm đứa là tan nát, sáu đứa là thảm họa mà bảy đứa là… rồi đời!

Thời cuộc thay đổi, đến tháng 3 năm 75 thì tôi quay về Việt Nam để đón các con. Lúc đó tôi đang có thai đứa thứ hai được bảy tháng. Khi còn bên Mỹ, qua tin tức trên báo và tin rỉ ra trong quân đội thì chúng tôi biết chắc là Saigon sẽ mất, nhưng khi về Việt Nam thì Saigon vẫn vui vẻ, vẫn bình yên. Rạp chiếu bóng vẫn hát, tiệm ăn vẫn mở cửa, đám cưới vẫn tiến hành, tình yêu vẫn nở hoa… Tôi thầm cằn nhằn báo chí Mỹ thật là dỏm, toàn là đưa tin vịt không hà.

Nhưng với ngày qua, mọi việc có vẻ tệ hơn. Nhóm người quen bán hột xoàn với mẹ con tôi cùng nhau an ủi rằng “bà Mỹ” còn ở đây chưa chạy thì lo gì. Ông xã tôi kêu điện thoại ngày một hối thúc tôi ra đi. Tôi trả lời là má tôi không cho đi, sợ về Mỹ sanh rồi lấy ai săn sóc, làm sao có củi lửa để hơ, có lá xông để tắm, có nghệ vàng để thoa mặt, v.v. Sanh xong rồi tôi sẽ qua.

Một tuần sau tôi mất liên lạc với anh.

Ngày 20 tháng 4, 1975 một trung sĩ Việt Nam lái xe jeep đến nhà tôi, gõ cửa:
“Xin lỗi đây có phải là nhà của bà Lê Thị Hoa không?”.

Tôi trả lời:
“Trung sĩ ơi, ở đây không có bà Lê Thị Hoa chắc trung sĩ muốn kiếm bà Lệ Hoa phải không?”

Viên trung sĩ vội nói:
“Tôi cũng không biết chắc. Tôi làm việc cho ban an ninh phi trường và được lịnh tới đây chở cái bà có chồng Mỹ lên gặp Đại tá Mỹ phụ tá tùy viên quân sự…”

Tôi cầm lấy giấy và thấy tên tôi. Tôi vội dẫn theo hai đứa con nhỏ nhất lên phi trường Tân Sơn Nhất. Khi vào văn phòng, vị Đại tá cho tôi biết là ông xã đã liên lạc với cơ quan của ông và nhờ họ giúp tôi và các con phương tiện để rời Việt Nam.

Vị Đại tá nhìn xấp tài liệu nói:
“Chồng bà yêu cầu Tòa Đại sứ giúp đỡ bà và ba đứa con di tản khỏi Việt Nam lập tức. Xin bà hãy để hai đứa trẻ này lại đây cho cô thơ ký tôi trông chừng, còn bà thì theo xe trở lại nhà và dẫn đứa thứ ba tới đây, chúng tôi sẽ làm giấy tờ và gia đình bà sẽ ra đi nội trong ngày nay”.

Tôi ngẩn ngơ nhìn vị Đại tá ngồi nghiêm chỉnh trước mặt:
“Ngài Đại tá, ngài có nói chơi không? Tôi sanh ra, lớn lên, sống ba mươi lăm năm tại non nước nầy giữa cha mẹ, thân nhân, bạn bè… và bây giờ ngài cho tôi hai tiếng đồng hồ để từ bỏ tất cả… Xin ngài hãy nói là ngài nói chơi, chuyện này không có thật…”

Nước mắt tôi ứa ra và chắc là tôi có vẻ bi thương của một con thú sắp chết nên vị Đại tá rộng lượng nhìn tôi:
“Tôi biết tình cảm của bà. Thôi bà hãy dẫn con về và ngày mai trở lại. Ngày mai, bà có nghe rõ không? Chuyện đầu tiên bà thức dậy ngày mai là cùng ba con lên xe đến đây. Tôi sẽ gởi người trung sĩ này đến nhà bà sáng mai”.

Tôi về nhà và cả nhà bắt đầu khóc. Tôi đi lên đi xuống thang lầu, mở các hộc tủ ra rồi đóng lại, ra sân thượng nhìn chậu cúc héo queo, xuống nhà bếp ngồi lên bộ ván ngựa, vô nhà tắm rờ rờ cái lon múc nước, ra phòng khách nằm lên võng đưa kẽo kẹt… Tôi như người mộng du, làm tất cả những hành động vô nghĩa đó với tiếng khóc hụ hụ.

Ba giờ chiều tôi gọi điện thoại cho vị Đại tá biết là vì tôi bị xúc động nên đã động đến cái thai. Hiện giờ tôi đang ra huyết và Bác sĩ cấm không cho tôi di chuyển cho đến ba ngày sau. Dĩ nhiên vị Đại tá không dám giỡn với tánh mạng người khác nên phải đồng ý cho tôi thêm ba ngày nữa. Tôi không nghĩ là sau ba ngày đó tôi còn có được một giọt nước mắt nào nữa trong cuộc đời.

Ba má tôi không đi vì tôi có người anh đi tập kết: ông bà chờ sự trở lại. Anh rể tôi không đi vì là sĩ quan Cộng hòa: sợ mang tội trốn lính. Chị tôi không đi vì theo chồng.

Ba đứa cháu trai theo tôi vì sợ sẽ phải bị đày đi lính. Một đứa cháu gái theo tôi vì sợ sẽ bị gả ép cho thương phế binh Cộng sản.

Vì thế ba ngày sau tôi mang một bụng bầu tám tháng và bảy đứa nhỏ lên phi trường. Vị Đại tá nhìn tôi như nhìn con quái vật:
“Xin lỗi bà, theo giấy tờ thì tôi chỉ có quyền cho bà và ba đứa con của bà đi. Hiện tại bà có tới bảy đứa! Tôi thật không thể giúp bà”.

Khi người ta phải phấn đấu cho sự sống chết thì can đảm và khôn ngoan ở đâu bất chợt hiện ra. Tôi nhẹ nhàng nói:
“Tôi hiểu thưa Đại tá. Tôi không trách ông. Nhưng đây là những đứa cháu tôi nuôi từ nhỏ giống như con tôi vậy. Nếu ngài không cho chúng đi thì mẹ con tôi cũng xin ở lại”.

Vị Đại tá bối rối nhìn tôi. Có lẽ ông đã biết rằng rồi thì Việt Nam sẽ mất, rồi thì một làn sóng người sẽ cuồn cuộn ra đi. Sớm một vài ngày, bốn đứa trẻ này có thấm gì đối với số người đang rần rộ chen lấn ngoài kia. Ông thở dài, ngồi xuống ghế ký cái công văn “eight months pregnant wife and seven children of US citizen need to be evacuated” rồi đưa cho tôi. Chúng tôi theo dòng thác người nhớn nhác ra đi.

Chúng tôi tới Camp Pendleton ngày 5 tháng 5 năm 1975. Anh đang đóng quân ở Ferndale, một tỉnh lẻ nhỏ nhắn hiền hòa chỉ có bảy ngàn dân, cách San Francisco sáu tiếng đường xe về hướng Bắc. Lúc đó chiến tranh lạnh giữa Hoa Kỳ và Nga Xô vẫn tồn tại nên đây là một căn cứ hải quân rất quan trọng nằm trên một ngọn đồi cao ngó ra biển. Các đài radar tối tân được đặt cùng khắp để theo dõi các tàu ngầm xâm phạm bất hợp pháp vào hải phận Mỹ và California.

Khí trời California lúc đó là 75 độ mà mọi người lạnh cóng. Ðêm thứ hai tại camp, anh lái xe một lèo 16 tiếng để đến đón mẹ con tôi. Mười một giờ khuya một người lính Mỹ đến lều để dẫn tôi lên văn phòng nơi anh đang làm thủ tục.

Bạn có biết lúc đó tôi giống ai không?

Không Giống Ai Hết!

Ðây là một người đàn bà 36 tuổi, tóc hơi dính chùm lại vì cát bụi, mặt hỏm vào, gò má bị nám, mặc một cái áo dài xanh bên hông chỉ gài được một nút ở dưới nách vì thai bụng quá lớn, ngoài khoác một áo bầu thùng thình màu trắng, đầu trùm cái mền xám cột thắt dưới cằm, chiều dài mền thả phấp phới sau lưng. Le lói hơn nữa là người lính Mỹ trẻ thấy tôi run cầm cập nên cởi cái áo lính trận ra, trước mặt đầy những túi để dao găm, lựu đạn v.v… và trùm lên tôi. Tôi bước vào căn lều. Bàn làm việc nằm cuối phòng và anh đang đứng cúi xuống ký giấy tờ.

Chưa bao giờ trong đời tôi lại bước những bước chân nhẹ nhàng, nặng nề, tủi hổ, hoang mang, giải thoát, run sợ như lúc đó. Ðây là lúc bắt đầu cho những ngày tươi sáng với sum họp thương yêu, với nhà lầu chọc trời, với ngựa xe rộn rã, với tương lai đại học hay là lúc chấm dứt cho dòng sông Hậu hiền hòa với hàng dừa nặng trái, lúc từ giã những hàng me xanh thân yêu Trần Quý Cáp, lúc quay lưng lại với bến Ninh Kiều đằm thắm xinh tươi, lúc quì lạy cha mẹ quê hương nói lời vĩnh biệt?

Tiếng bước chân tôi làm anh quay lại. Anh bước tới ôm lấy tôi. Tôi cố gắng để khỏi ngất đi, quì xuống sàn nhà, tay ôm lấy mặt và nghẹn ngào: “Oh My God honey, I lost my family, I lost my country, I lost everything!” rồi tôi khóc nức nở. Anh quì xuống ôm đầu tôi. Anh cũng khóc. Tất cả người Mỹ trong phòng đều rưng rưng.

Ngày 13 tháng 6 năm 1975 tôi sanh cháu Jimmy. Tháng 9 tựu trường, tôi gởi hai đứa nhỏ nhất cho cô bạn, đi làm phụ giáo lớp một trường tiểu học Ferndale, hai đô la rưỡi một giờ.

Hè 1976, tôi đứng bán hot dog trong hội chợ và ba thằng lớn thì đi dọn rửa phân ngựa trong trường đua. Lúc đó Chánh phủ Mỹ còn giàu nên cứ hai năm là các quân nhân được đổi tới một trạm binh khác. Tôi thấy tụi nhỏ rất buồn và sợ rằng sự dời chỗ thường xuyên sẽ làm tụi nó hụt hẫng vì xa bạn nên khuyên anh giải ngũ. Và chúng tôi dọn xuống miền Nam California, tỉnh La Habra.

Tôi thì để tất cả sự nghiệp lại Việt Nam, anh thì trước khi biến cố Việt Nam xảy ra, đã bị thua lỗ tất cả vốn liếng trong một vụ hùn hạp mở tiệm in với một nhóm dân sự nên chúng tôi hoàn toàn… sạch sẽ. Khi đi mướn nhà ở đường Dexford, La Habra, chúng tôi chỉ dẫn theo bốn dứa nhỏ nhất, hai trai hai gái. Chủ nhà là một người đàn ông Mỹ dễ thương, khi biết anh vừa giải ngũ thì rất vui vẻ nói:
“Ô, căn nhà nầy có ba phòng lớn, thật là lý tưởng cho gia đình ông bà với hai trai hai gái. Tôi rất vui lòng cho ông bà mướn”.

Chúng tôi dở khóc dở cười. Anh là người ít nói và chậm chạp nên tôi bèn duyên dáng cười cười nhìn ông
“Thưa ông, nếu tôi nói với ông là chúng tôi có tám đứa con thì ông có tin chúng tôi không?”

Lần nầy thì chủ nhà nhìn chúng tôi dở khóc dở cười. Ông ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
“Thôi được, tôi đồng ý cho ông bà mướn. Mỗi tháng tôi sẽ đích thân đến thâu tiền nhà. Hy vọng là mọi sự sẽ tốt đẹp”.

Ông đâu có biết rằng tên tôi là Lệ Hoa nghĩa là một bông hoa mỹ lệ, đẹp đẽ chớ chẳng phải là nước mắt của hoa nghe bạn. Vì thế tôi thích trồng bông, thích vườn tược. Tôi sanh ra và lớn lên ở Cần Thơ, bà con sống ở Ô Môn, Thới Lai, Phong Ðiền, Cờ Ðỏ nên mỗi mùa Hè chị em tôi thường về vườn đi cầu khỉ, chèo ghe, bắt ốc gạo, hái vú sữa. Cái chất vườn Nam Bộ đã ăn sâu vào máu tôi nên hiện giờ nhiều người còn cho rằng tôi không có vẻ gì là sang trọng như người Việt Nam sống ở Mỹ. Biết sao!

Sau khi dọn vô, tôi và các con hì hục cuốc đất, đổ phân và biến cái sân trống rỗng của ông thành ra một cái vườn đầy hoa vạn thọ (đây là để honor má tôi vì bà rất thích bông vạn thọ). Tháng sau khi ông tới thu tiền nhà thì ông ngẩn ngơ và phán một câu, “Tôi không cần phải tới tận nhà thâu tiền nữa, bà cứ viết check gởi cho tôi là được. Cám ơn bà về những bông vạn thọ”.

Một vài người quen xúi tôi xin đi làm waitress vì nghề này tiền lương chẳng bao nhiêu nhưng tiền tip thì… ăn chết không hết. Trời ơi tôi nghĩ tới cái viễn cảnh, anh sẽ đi làm, tôi sẽ đi làm lại còn tiền hưu trí từ quân đội nữa thì quả nhiên là… ăn chết không hết! Tôi vội vàng vác đơn tới tiệm Red Lobster gần nhà xin việc. Người manager hỏi bà có làm waitress bao giờ chưa? Dạ chưa. Bà có khi nào làm chủ nhà hàng chưa? Dạ chưa. Cứ hỏi…bà có… bà có… bà có…. Cứ trả lời… dạ chưa… dạ chưa… dạ chưa… và thế là tiền ăn chết không hết chỉ là mộng ảo.

Tôi mua tờ báo thấy rao là “Chương trình CETA của Chánh phủ sẽ trả tiền trường cho một năm học để giúp bạn học các nghề văn phòng như thơ ký, kế toán, phụ tá hành chánh v.v… Mỗi tuần chương trình sẽ tặng bạn bốn chục đô để di chuyển và sau khi tốt nghiệp sẽ kiếm việc làm cho bạn…”. Tôi nói với anh đây chắc hẳn là một sự lường gạt vì làm gì lại có sự tốt đẹp như thế. Anh thì lớn lên đã nhập ngũ, phần nhiều thời gian nếu không lang thang trên biển cả thì cũng đóng quân ở một xứ khác ngoài Mỹ nên đối với xã hội dân sự cũng có chút bỡ ngỡ. Tôi hăng hái tới cơ quan xin vào chương trình thơ ký. Người phụ trách chương trình thấy tôi là người tị nạn, chồng lại là cựu quân nhân, hình dạng có vẻ nghèo nên thương tôi. Sau khi nói chuyện và đọc cho tôi viết một đoạn Anh văn, bà nhận tôi vào chương trình thơ ký. Khi tôi lui cui làm giấy tờ, bà dịu dàng hỏi:
“Bà có giỏi toán không? Làm nhân viên kế toán thì nhiều lương hơn thơ ký thường và rất dễ kiếm việc làm”.

Tôi không dám trả lời vì không biết “toán” của bà thuộc về loại gì nên ngập ngừng:
“Dạ tôi cũng không biết chắc”.

Bà lấy ra một bài thi toán đưa cho tôi. Ái dà, bà ơi. Có phải là bà đang chà đạp cái trường Gia Long của tôi không? Tôi là học sinh đệ nhất A đây nha bà, dù tôi không được như bà Dương Nguyệt Ánh ngày nay phát minh ra cái gì là bom tìm nhiệt thì ba cái 25% của 100 là bao nhiêu, 1/3 của 75 có lớn hơn 2/3 của 40 không v.v.. là cái chuyện nhắm mắt cũng trả lời được.

Một năm sau tôi được giới thiệu vào làm cho Công ty nhà hàng Dennys, bộ phận kế toán xuất nhập.
Làm việc bảy năm tại Dennys tôi đã học được biết bao điều về gia đình, xã hội, dân tình Mỹ. Trong những buổi ăn trưa tôi học đan áo, học móc khăn, học cách nấu món ăn Mỹ, Ý, Tây Ban Nha, học cách dạy con, cách đối xử với chồng, học cách không bao bạn ăn để rồi kể lể khi giận hờn nhau, mà mạnh ai nấy móc túi trả phần mình và tình bạn thì không bao giờ sứt mẻ.

Những người bạn ngoại quốc mới này giúp tôi hoàn thiện ngôn ngữ, hiểu rõ những tiếng lóng, sử dụng thành thục những thành ngữ, trả lời điện thoại một cách chuyên nghiệp.

Giúp tôi biết nói cám ơn với con cái. Biết dằn lòng không mở thư của chúng ra kiểm soát. Biết chỉ dẫn chúng tự thực nghiệm cuộc đời hơn là bao che lầm lỗi. Biết nói xin lỗi khi phạm phải sai trái.

Biết văn minh không phải là mặc áo hở ngực hở mông mà là tuân thủ theo Hiến pháp. Biết tự do không phải là mạnh ai nấy làm mà là kính trọng nhân vị của chính mình và của đồng loại. Biết thành công là nhờ vào sự mẫn cán, học hỏi, cầu tiến chớ không nhờ vào nịnh bợ lấy lòng.

Biết các sắc dân khác cũng đầy thương yêu và nhiều đau khổ. Biết kính trọng người Mỹ đen. Biết thương yêu người Mễ nghèo.

Họ cười lăn lóc với cái accent Á Ðông của tôi nhưng họ không chê tôi dốt nát. Họ chỉnh sửa lại những tiếng tôi dùng sai trật nhưng không có ý khinh khi. Họ không đánh giá tôi cao vì tôi đến từ gia đình trưởng giả như tôi khoe khoang. Họ không nhìn tôi thấp kém vì tôi thuộc third world country như báo chí thường đăng tải. Họ nhìn tôi giống như họ, một người vợ, một người mẹ đang cố gắng kiếm tiền một cách lương thiện để giúp chồng nuôi dạy đàn con.

Chín mươi phần trăm nhân viên kế toán là đàn bà. Ðây là những bà mẹ, bà vợ ban ngày làm toàn thời gian, chiều về nấu ăn chăm lo con cái, cuối tuần giặt giũ, lau chùi nhà cửa, dạy con làm bài tập, đi chợ, đi chơi với gia đình. Họ sống bình thường mà còn giỏi hơn tôi là đằng khác.Vậy mà khi xưa tôi cứ nghĩ đàn bà Mỹ là đồ bỏ. Tôi mang tội khinh người. Khi ở Việt Nam tôi ít khi nào giặt quần áo cho tôi, cho chồng, cho con. Tôi chưa khi nào lau chùi cầu tiêu, thức khuya dậy sớm cho con bú, kiểm soát từng bài văn điểm toán cho con. Tất cả đều có anh tài xế, chị vú, anh bồi, chị bếp, cô giáo dạy kèm. Biết bao người đã than trời trách đất rằng sống ở đây sao mà cực quá, xã hội gì mà sướng đâu không thấy chỉ thấy cái gì cũng tự mình làm, thời gian hưởng thụ chẳng bao nhiêu mà làm việc thì quay tròn như chong chóng chẳng lúc nào ngừng. Cực ơi là cực. Chỉ chăm chăm muốn về Việt Nam hưởng thụ.

Bạn ơi, bạn hãy dừng chân một bước. Bạn hãy mỉm cười cầm từng món đồ dơ bỏ vào máy giặt, nhìn vết bẩn trên chỗ đầu gối và hình dung lại gương mặt mếu máo đáng yêu của con nhỏ khi té quị xuống bãi cỏ, nhớ lại ánh mắt chờ mong tin tưởng của con khi mẹ đến đỡ lên.

Bạn hãy nhìn cả nhà húp sột soạt chén canh bầu, cùng chia nhau miếng sườn nướng, cuộn chả giò. Bạn hãy cúi xuống đứa bé đang nở nụ cười ngây thơ chờ mong bình sữa bạn đang đu đưa trước mặt. Bạn hãy vừa xào món tàu hủ vừa trả lời thằng con đang cắm cúi làm bài tập bên kia bàn là Los Angeles không phải là thủ phủ của California con ơi. Thủ phủ của CA là Sacramento hoặc square of three is not three, it’s nine. Và năm phút sau đứa con vui vẻ đứng dậy: “Thank you mom (or dad). My home work is done”.

Ðây mới chính là lúc bạn sống, là lúc mà bạn xuyên thủng qua lớp giáp để linh hồn và huyết nhục bạn và gia đình cùng hòa quyện vào nhau. Ðây chính là lúc hột mè trí tuệ nảy nở trong các con do bạn gieo xuống, lúc hạt giống tình yêu thẩm thấu vào linh hồn chúng do bạn cày cấy vào. Chúng sẽ lớn lên với ân cần bạn gởi vào chén cơm, với giúp đỡ bạn sẻ chia trong bài tập, với thương yêu bạn vuốt thẳng áo quần, với mồ hôi bạn chảy dài trong trận đấu. Và vợ chồng bạn có cùng một trận tuyến, cùng một hướng đi.

Tôi đã từ bỏ quê hương điêu tàn, đã quay lưng với tương lai đen tối. Tôi đã chọn một nơi khác để cất nhà, một miếng đất khác để gieo hạt. Tôi đã dùng nước sông của họ để tưới tẩm, dùng đồi núi của họ để chăn nuôi. Tôi đã dùng chất xám của họ để tiến thân, dùng lòng tốt của họ để sống còn. Tôi không bao giờ quên dòng máu Việt trong tôi nhưng tôi sẽ không ngồi đó nhìn non nước này, dân tộc này với một ánh mắt hờ hững, dửng dưng, một thái độ vô ơn, rẻ rúng. Tôi sẽ không coi đây chỉ là một mảnh đất tạm dung và ngồi khóc thương cho một khung trời đã mất, mơ tưởng về một dĩ vãng đã tàn phai.

Tôi sẽ hòa vào các chủng tộc khác nhau, rơi lệ khi thấy tòa nhà chọc trời sụp đổ, đau thương khi nhìn xác lính được chở về, hân hoan khi nghe bài quốc ca trong các cuộc tranh tài. Tôi sẽ dạy các con cùng tôi nhận nơi này làm quê hương, sẽ đem tất cả khả năng lao động hay học vấn đóng góp vào sự thịnh vượng chung của quốc gia này.

Thay vì trồng cây cổ thụ tạm thời trong một cái chậu nhỏ để nó chỉ được lớn èo uột trong bóng râm, tôi và gia đình muốn đào một hố sâu, đổ đầy phân bón, tưới tẩm nó với tất cả ân cần, săn sóc nó với tất cả sức lực để cho rễ mạnh nó ăn sâu vào lòng đất, cho tàn xanh nó tỏa rộng khắp không gian. Chúng tôi không tạm dung. Chúng tôi mọc rễ và yêu thương quê hương này. Rồi một ngày nào đó, ở bên kia góc trời có cần tới một bóng mát bình an, chúng tôi sẽ chiết bớt một nhánh cổ thụ đem về…

Chúng tôi chỉ có thể làm như thế khi chúng tôi nhận nơi này làm quê hương.

Lệ Hoa Wilson


Sunday, October 27, 2024

Xé Thư Tình - Đình Phước

 Click Vào Đây - Nhạc phẩm Xé Thư Tình/Ca sĩ Đình Phước

Wednesday, October 23, 2024

Kể Chuyện Trong Đêm - Hoàng Hải

 Click Vào  Đây - Nhạc phẩm Kể Chuyện Trong Đêm/Ca sĩ Hoàng Hải

Friday, October 18, 2024

Tân cổ : Thành Phố Buồn - NSND Trọng Hữu - NSUT Vân Khánh

 Click Vào Đây - Tân cổ : Thành Phố Buồn - NSND Trọng Hữu - NSUT Vân Khánh

Monday, October 14, 2024

CÔ LÁI ĐÒ BẾN HẠ - QUỲNH TRANG

 Click Vào Đây - Nhạc phẩm CÔ LÁI ĐÒ BẾN HẠ/Ca sĩ QUỲNH TRANG

Wednesday, October 9, 2024

Một cô gái chuyển động mềm dẻo như người không xương.

 Click vào video để xem một cô gái chuyển động mềm dẻo như người không xương.  



Saturday, October 5, 2024

Em Là Cô Giáo Vùng Cao - Lê Thu Uyên

 Click Vào Đây - Nhạc phẩm Em Là Cô Giáo Vùng Cao/Ca sĩ Lê Thu Uyên

Tuesday, October 1, 2024

NGƯỜI TÌNH KHÔNG ĐẾN - THIÊN HÀ

 Click Vào Đây - Nhạc phẩm NGƯỜI TÌNH KHÔNG ĐẾN/Ca sĩ THIÊN HÀ

Friday, September 27, 2024

Hỏi Anh Hỏi Em - Diễm Hân

 Click Vào Đây - Nhạc phẩm Hỏi Anh Hỏi Em/Ca sĩ Diễm Hân  

Monday, September 23, 2024

Đêm Tàn Bến Ngự - Hồng Vân

 Click Vào Đây - Nhạc phẩm Đêm Tàn Bến Ngự/Ca sĩ Hồng Vân

Wednesday, September 18, 2024

Cà phê đường Nguyễn Huệ Sàigòn September 2024.

  

KQ63D Huỳnh Thông Thái, KQ63A Nguyễn Kiễm.
    Một buổi sáng ở Sàigòn, tôi và Kiễm đi ăn sáng xong, không biết làm gì, hai đứa tôi ra đường Nguyễn Huệ uống cà phê. 
Tuổi về chiều, tôi và Kiễm thường gặp nhau ở Sàigòn. Kiễm về Sàigòn vì công việc làm ăn lớn với hai hãng làm bao bì xuất cảng có 500 nhân viên. Còn tôi về Sàigòn, vì tôi mất bà xã đã 15 năm, nên tôi thường về Sàigòn vì Sàigòn là quê hương tuổi thơ tôi. Sống nơi đây tôi tìm được thư giãn cho tâm hồn. Về Sàigòn tôi ở khách sạn, có năm tôi về 9 tháng, có năm 12 tháng. Chủ yếu của tôi là chơi tennis trong Tao Đàn và ăn uống thức ăn Việt Nam, tôi thích lắm.

Tết 2024 tôi tặng hội tennis bữa tiệc tất niên 60 người. Tôi chỉ trả tiền ăn, nhưng tôi không trả tiền bia. Tiền bia anh em góp lại trả.

Tôi và anh hội trưởng Bình.
./.



Saturday, September 14, 2024

Đèn Khuya - Lê Thu Uyên

 Click Vào Đây - Nhạc phẩm Đèn Khuya/Ca sĩ Lê Thu Uyên

Monday, September 9, 2024

MƯỜI NĂM TÌNH CŨ - Quỳnh Như

Click Vào Đây - Nhạc phẩm MƯỜI NĂM TÌNH CŨ/Ca sĩ Quỳnh Như

Thursday, September 5, 2024

TRỜI CÒN MƯA MÃI - Quỳnh Như

 Click Vào Đây - Nhạc phẩm TRỜI CÒN MƯA MÃI/Ca sĩ Quỳnh Như

Thursday, August 29, 2024

Giữ Vết Chân Tình - Sỏi Ngọc

 Giữ Vết Chân Tình 

(Kể lại câu chuyện của chị YT)


... Nam mô hắc ra đát na, đá ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô Yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa… (Chú Đại Bi)
    Tiếng tụng kinh đều đều, vừa tai nhẹ nhàng quen thuộc của chồng tôi ở phòng bên vọng ra làm tôi cảm thấy tâm hồn mình thêm bình an; đứng lên bước ra ngoài hàng hiên của căn airbnb ở tầng thứ 10 cao nhất của building mà chúng tôi được các con mướn cho một tuần lễ nghỉ hè mừng ngày sinh nhật đám cưới 40 năm của chúng tôi, cả tâm hồn theo dòng thác chảy rào rạt kỷ niệm xa xưa…
    Dòng thác Niagara hùng vĩ dồn dập chảy bên dưới tạo ra những tiếng động thật to, át cả tiếng xe chạy lẫn tiếng tụng kinh Chú Đại Bi bên trong nhà, những giọt nước li ti của dòng thác bắn ra một khoảng khá xa ngoài vành đai làm ướt cả một phần rộng lớn của con đường nơi có những hàng quán bán đồ lưu niệm và đồ ăn giải khát cách đó một quãng khá xa. Nước mạnh của dòng nước cộng với gió bay lên nơi tôi đứng thật mát mẻ, dễ thở, tạo ra một màn sương dầy đặc ngay trước mắt khó có thể thấy rõ những gì đang xảy ra bên dưới.
    Thác Niagara được Unesco công nhận là một di sản thế giới từ 1983, nằm ở biên giới giữa Canada và Hoa Kỳ, giữa bang New York– Hoa Kỳ và Ontario của Canada, phần đẹp nhất là bên Ontario, Canada, hay còn được gọi là Horseshoe Falls vì nó có hình dáng cong như chiếc móng ngựa, không những là điểm du lịch nổi tiếng nhất thế giới với cảnh thiên nhiên hoang sơ thu hút lòng người mà đàng sau nó còn có một câu chuyện tình lãng mạn của chàng Lelawala, người dân tộc bản địa Iroquois và cô gái tên Niagara, một cô gái trẻ xinh đẹp của bộ tộc Seneca, cô gái bị cha mẹ ép gả cho một người đàn ông mà cô không yêu vì đã đến tuổi cặp kê, cô quá buồn tủi, đã gieo mình xuống thác, thần thác là Heno vì thấy thương cho tình cảnh của cô, đã chứng kiến bao ngày những giọt nước mắt đau khổ thầm kín của người con gái đẹp và những lời tâm sự từ đáy lòng của nàng, thần đã hóa thành chàng trai Lelawala đến cứu nàng thoát khỏi lưới tình không mong muốn, và họ có lời nguyện bên nhau mãi mãi trên dòng sông Niagara; sau lời nguyện thề ấy, thân thể họ hòa nhập vào dòng sông, biến hóa thành một loạt các thác nước lớn như để chứng minh cho nhân loại biết sức mạnh của tình yêu, niềm tin và hy vọng của họ mạnh mẽ, tràn ngập vô bờ như dòng thác vậy.
    Vì biết tôi rất yêu thiên nhiên nên con gái đã đặt căn airbnb rộng rãi hai phòng ngủ tại Ontario cho vợ chồng chúng tôi hưởng mùa du lịch một tuần lễ vào đầu mùa xuân. Căn nhà nhỏ này có bếp, tủ lạnh đầy đủ tiện nghi như chính ngôi nhà ở của mình vậy, đã thế con gái đã xếp cho chúng tôi cả một tủ lạnh đầy ắp đồ ăn, hoa quả, rau tươi, sữa trứng cho đủ một tuần lễ mà tôi không phải mất công xuống dưới đi chợ nữa.
    Đã bốn mươi năm ở Boston, tôi chưa quay lại thăm dòng thác đầy kỷ niệm này. Giờ đây đứng trên cao nhìn xuống từng đôi tình nhân khoác vai, âu yếm bên nhau ngắm thác nước rộng lớn ồ ạt đổ xuống mạnh mẽ, cùng với những chiếc cầu vồng bẩy màu hiện ra giữa dòng nước làm ký ức tôi không thể không quay về những lời hẹn thề duyên phận khó quên. 
 
***
 
Vào năm 1978, khi chuyến tàu vượt biên trốn Cộng của chúng tôi được những ngư dân Thái Lan cứu sau 12 ngày lênh đênh trên biển, đồ ăn, nước uống cũng như xăng dầu cho tàu, tất cả đã cạn kiệt, nhưng may mắn là chúng tôi không bị cướp, ai nấy đều vật vờ như những xác chết với đôi mắt thâm quầng, đôi môi khô rám, không còn sức lực để nhấc nổi cánh tay hay nói được nữa.
    Mỗi buổi chiều trên đảo Songkla, bốn chị em gái khu A chúng tôi rủ nhau đi lấy thức ăn ở một lều cách xa nơi của chúng tôi chừng 6km đi bộ, phải băng qua một khu nhà kho với những bao gạo xếp cao ngất tầm nhìn, họ chứa những bao gạo, thóc, khoai, thực phẩm khô, củi, than… trong những gian nhà trống để nấu đồ ăn mỗi ngày phát cho dân tỵ nạn; ngày nào tôi cũng lấy thêm một phần ăn nóng cho một bác gái bị bệnh, cha mẹ tôi đã gởi gấm tôi cho bác ấy, bác lớn tuổi đã trên 60, bị say sóng, đói khát trên tàu vì những ngày lênh đênh nắng gió làm bác như mất đi tất cả sức lực.
    Trong cả khu A, chỉ có 4 người con gái ngang tuổi nhau, khoảng 13-16, phải đảm nhiệm công việc nhẹ nhàng nhất là đi lấy phần cơm từ khu bên kia về lều của mình, còn những người lớn hơn thì xây dựng thêm lều, chỗ nấu ăn cho tập thể, phòng tắm… rất nhiều việc làm vì đảo này còn rất mới, chỉ là bãi đất trống, hoang vu. Chúng tôi mỗi đứa trên hai tay bưng hai bát cháo nóng hổi, vai thì vác mỗi người thêm một chiếc giỏ trong ấy đựng trái cây, vừa đi vừa nói chuyện rôm rả, ai cũng rất ngây thơ, chân chất và ước mơ hoài bão cho tương lai căng đầy trong trái tim.
    Tôi có thân nhân bên Cali rất đông, ngay cả cha mẹ cũng đã vừa mới vượt biên được bảo lãnh sang đó, chỉ còn một mình tôi là kẻ đi cuối cùng, cha mẹ tôi muốn tôi đi vượt biên hơn là ngồi chờ giấy bảo lãnh về vì sợ luật lệ Cộng Sản hay thay đổi rất nhanh thì làm sao tôi xoay sở được một mình. Nên khi vượt biên sang trại Thái Lan, chỉ yên tâm trau giồi tiếng Mỹ và chờ phái đoàn Mỹ phỏng vấn thôi. Tôi là một đứa con gái mạnh mẽ và nhanh nhẹn, giúp mọi người làm bếp, giữ sổ sách, tính toán chi tiêu đơn giản khu ở của chúng tôi rồi cuối tuần gởi lên ban lãnh đạo của trại.
    Được ban lãnh đạo tin tưởng, ngoài những việc làm sổ sách, họ cho tôi giữ một chìa khóa phụ của kho để kiểm toán, và họ sẽ đi mua hàng thêm khi có dịp vào thành phố.
    Sau ba tháng ở trại, một buổi chiều trời mưa xối xả, ai nấy đều ở yên trong lều; tôi sực nhớ những bao gạo trong căn nhà kho sẽ bị mưa bắn vào vì cửa sổ nơi ấy thường không đóng, những hạt gạo sẽ bị mốc ầm, ăn vào sẽ bị ngộ độc, nên tôi vội vã khoác áo mưa chạy đến kho, tay đem theo một lô bao nylon để che cho những bao gạo ấy.
    Vào đến nơi, tôi vội quẳng ra những chiếc bạt nylon thật rộng để che phần bao gạo bên ngoài cùng cạnh cánh cửa sổ to, để đừng bị nước mưa bắn vào. Tôi bé nhỏ so với một núi cao hơn đầu mình, những bao thực phẩm để lẫn lộn, tôi cứ phải nhẩy lên để hất đầu bạt nylon cho bao trùm lên, bỗng nhiên tôi thấy bên đầu bên kia có một cánh tay của một người nào đó giúp tôi kéo đầu chiếc bạt ấy thẳng lại và cột vào bao gạo. Hết hồn, tôi vội vàng dừng tay, lo lắng đứng yên chờ người ấy lên tiếng.
    Không một âm thanh nào phát ra, tất cả đều im lặng, chỉ tiếng mưa nặng hạt ồ ạt chẩy trên mái tôn tạo ra một âm vang chìm đắm. Tôi cố gắng lên tiếng để tự trấn an :
    – Có ai ở đó không?
    – …(chỉ có tiếng thở nhẹ nhàng)
    – Xin hãy trả lời tôi…
    Căn nhà kho không rộng lớn lắm, tôi lùi ra đến gần cửa ra vào đề có gì còn co chân chạy, còn người giấu mặt kia đứng phía trong của ngôi nhà, gần cánh cửa sổ mở to không có khung chắn, nơi đó nước bắn vào rất nhiều, vẫn giữ im lặng, không chút cử động.
    – Xin… hãy bước ra đi!
    Sự yên lặng vẫn kéo dài, tò mò, tôi mon men nhẹ nhàng tiến đến góc trong nhà để biết ai đã giúp tôi kéo tấm bạt mà lại không dám ra mặt.
    Tôi vừa ló đầu vào trong góc nơi lẽ ra người giấu mặt đứng ở đó. Bỗng nhiên tôi giật mình, thấy bóng người vụt nhảy qua cửa sổ, nhanh như một con mèo hoang, tôi sững sờ nhìn theo dáng cao lớn, mảnh khảnh, toàn thân được bọc trong chiếc áo mưa đen, chỉ ló ra đôi dép sandal hai quai loại của những người dân Thái bên ngoài trại hay đi, chứ trong trại mọi người mang một loại dép giống nhau, rẻ tiền hơn.
    Tôi tự hỏi « tại sao người này lại trốn tôi?» tôi không hiểu lý do gì cả và cảm thấy một chút gì đó bí ẩn len lén vào hồn. Nhìn xuống góc những bao bằng vải bố chất chồng nhau, tôi thấy có một lỗ lõm vào, làm như đã bị ai đó lấy đi một bao mà những bao còn lại chưa được sắp xếp lại cho ngay ngắn để đừng ai để ý. Thì ra người lạ mặt lúc nãy là…tên trộm đồ ăn của dân ty nạn chúng tôi!
    Tôi thấy mình đã khổ, đi vượt biên tỵ nạn xứ người, lại còn có người bản xứ đói hơn chúng tôi nữa nên mời đi ăn cắp vặt như vậy; nhìn trời mưa tôi đoán không thể nào ngừng được, vội vàng khoác áo mưa thật kín, lao ra làn mưa, quay về lều khi cơn mưa vẫn còn đổ xuống như trút tất cả nước từ mọi đám mây trên trời. Vừa đi vừa suy nghĩ đến tên trộm lúc nãy, đường xá trơn trượt, trước mắt chỉ có nước và nước, tôi không thể nhìn thấy đường, cũng không thể nhìn xa được; bất ngờ, tôi trượt chân vào một cái hố, cả thân thể lăn nhào xuống, tôi sợ hãi không biết hố này sâu bao nhiêu, cũng không biết có ai xung quanh đây để tôi kêu cứu, tay chân quơ quàng tứ phía, tôi cảm thấy đau điếng ở chân vì đã đập vào cành cây hay gì đó, miệng la hét inh ỏi nhưng tất cả đều vô vọng vì nước mưa vào miệng, mắt, tôi đành để mặc cho cả người lăn mấy vòng, sặc sụa vì nước, rồi đến khi hết sức chịu đựng, tôi đụng vào một cánh tay vững chắc của một ai đó.
    Khi tôi được đặt xuống, cả người ướt đẫm nước, tôi được ai đó đưa cho chiếc áo rách để lau mặt. Căn nhà nhỏ bé với bốn bức vách xây bằng lá, trong góc có để một chiếc giường, trên chiếc giường ấy một bà cụ gầy ốm chỉ có da bọc xương, đôi mắt nhắm nghiền, bà không cử động tí nào cả; trước mặt tôi là một người đàn ông, khoảng 20-25 tuổi người Thái, cả người cũng ướt nhem như tôi, người đã cứu tôi từ sâu lên, khuôn mặt hiền hòa, chiếc mũi cao, cặp mắt một mí, nhưng ánh lên sự dịu dàng cảm mến.
    Tôi định đứng lên, chàng ngăn tôi lại nói bằng tiếng Việt trôi chảy:
    – Hãy ngồi yên đấy! cô không thấy cái mắt cá xưng vù và vết thương đang chảy máu đó sao? để tôi đi lấy đồ băng lại chân cho cô vì chắc cô bị bong gân, và vết thương ngoài da kia cho dù máu có chảy nhiều nhưng sẽ sớm khỏi thôi, bây giờ cô không thể đi lại được đâu.
    – Anh… anh là người đã vào nhà kho phải không?... tại sao…
    – Vâng! Chính là tôi!
    – Còn ai … nằm trên giường kia?
    – Bà ngoại…Tôi phải nuôi bà ngoại, bà bị bệnh rất nặng, tôi là người xuất gia nên cũng không có tiền nhiều để chữa trị cho bà.
    – Là người xuất gia? … sao lại …ăn trộm đồ?
    Chàng mở to cặp mắt một mí nhìn tôi sững sờ:
    – Tôi không ăn trộm của ai cả, tại sao cô lại nói tôi ăn trộm? đây là những sâu cá tôi đánh bắt được, lá thuốc này tôi cũng hái, sắn khoai này tôi cũng đào ở chùa…
    – Anh đừng chối nữa! Tôi thấy có một bao bị thiếu trong nhà kho!
    – Vậy cô có chính mắt thấy tôi lấy cái gì từ trong đó ra không? cô xem thử xung quanh đây có bao gì giống bao ấy không?
    – Nếu không phải là anh thì là ai? Tôi thấy anh trốn trong đó mà? Sao anh không trả lời tôi khi tôi hỏi có ai ở đây không?... anh sợ gì chứ?
    – Tôi đã nhảy vào cửa sổ để vào đó ngồi thiền mỗi ngày, nơi ấy chính là nơi nghỉ chân của tôi vào mỗi bận tôi đi bắt cá, đào khoai, nơi ấy không có ai để ý, chỉ thỉnh thoảng có người vào để làm kiểm tra, hay lấy đồ ăn cho một tuần thôi, tôi đã rất yên thân nghỉ ngơi, ăn uống, ngồi thiền…
    – Sao anh không vào chùa?
    Chàng muốn đánh tan mọi nghi ngờ trong tôi, nên cất lời tâm sự:
    – Hồi tôi mới được sanh ra, mẹ đã bỏ tôi ở trước cửa chùa, tôi đã từng sống ở đó với thầy, tôi làm tất cả mọi việc trong chùa; đàng sau chùa có một mảnh đất rộng mà chúng tôi trồng rau, khoai sắn rất nhiều, cũng chỉ mình tôi chăm sóc, cho đến bây giờ tôi cũng hay lại đó gặt hái thành quả của mình. Rồi bỗng một hôm bà ngoại đến nhận tôi về để tôi chăm nom cho bà bệnh nặng, nên tôi đã không còn ở chùa nữa, nhưng tâm hồn tôi vẫn hướng về thầy và Phật. Thầy đã nói với tôi đây là chặng đường thử thách khó nhất mà tôi phải vượt qua.
    – Oh! Tôi…tôi thật hồ đồ, tôi xin lỗi, tôi thấy trong nhà kho nơi anh vừa bỏ đi có một bao bị thiếu, nên tôi đã…
    – Tưởng tôi lấy trộm?!... Không đâu, tuy tôi nghèo thật nhưng không làm điều phi pháp ấy. Tôi không muốn tiếp xúc với người đời nhiều vì đây chính là hạnh nguyện của tôi…
    Càng nói chuyện với chàng, tâm tôi thật bình yên, tôi không chút mảy may sợ chàng làm hại đến tôi dù lần đầu gặp một người lạ, giọng nói trong sáng, điềm đạm, đặc biệt đôi mắt chàng khi nhìn vào như mặt biển phẳng lỳ không gợn sóng, trong ấy tôi thấy mình thật bình yên. Nghe chàng nói là người đi tu từ nhỏ, lòng tôi bỗng cảm phục người con trai trẻ trước mặt mình, chững chạc, biết cách đối nhân xử thế. Không hiểu sao chỉ mới cái gặp gỡ đầu tiên này, tôi mang lòng cảm mến và tin vào sư thầy này đến thế!
    Bên ngoài trời vẫn đổ nước nhưng bớt hơn so với lúc sáng.
    Sư thầy ra phía sau nhà, đun ấm nước sôi, đem vào cho tôi một ly nước nóng với vài lá bạc hà, thầy nói:
    – Cô uống cho ấm người, nếu mệt cứ nằm xuống nền đất này nghỉ…
    – Còn chỗ của thầy ở đâu?
    – Đàng kia dưới chân giường của bà ngoại.
 
Chênh vênh đầu trượng thiền sư
Cửa non khép ải sương mù bóng ai
Non xanh ướm hỏi trang đài
Trăm năm còn lại dấu hài động hoa
 (Động hoa vàng, Phạm Thiên Thư)
 
Sáng hôm sau, khi trời đã tạnh mưa, quang đãng, thầy đã giúp tôi về bằng cách đưa cho tôi một cặp nạng, nhưng đi đường bộ thật gập ghềnh, khó khăn, nhiều đoạn thầy đã phải cõng tôi trên lưng để vượt qua những con đường ấy. Khi lưng thầy và phía trước cơ thể chúng tôi chạm nhau, tôi thấy tim mình đập mạnh, cả người rạo rực kỳ lạ, máu như dồn cả vào thái dương, mặt tôi đỏ lên bẻn lẻn như người đang làm chuyện gì không đúng vậy, trái tim đập mạnh đến nỗi sư thầy cũng cảm nhận được, chàng đặt tôi xuống một hòn đá nhỏ, ngồi xuống cạnh tôi:
    – Nếu có một điều ước, thì cô ước gì?
    Mười bốn tuổi vào lúc ấy, tuổi của sự trong trắng ngây thơ, mơ mộng, tình yêu trong tim chưa hình thành trọn vẹn, nhưng tôi cảm thấy ngoài cha mẹ ra, sư thầy này chính thật là người tôi muốn dựa dẫm cả đời! muốn nhìn thấy cặp mắt một mí ấy mỗi ngày, muốn nghe tiếng thầy nói khi mở mắt thức dậy, muốn được đập cùng nhịp đập của con tim với thầy và nhất là….
    Tôi ngước nhìn thầy với cặp mắt chan chứa tình cảm yêu thương:
    – Em muốn được thầy…. cõng mãi trên lưng…
 
Tình cờ anh gặp nàng đây
Chênh chênh gót nguyệt vóc gầy liễu dương
Qua sông có kẻ chợt buồn
Ngó hoa vàng rụng bên đường chớm thu 
(Động hoa vàng, Phạm Thiên Thư)
 
Sau lần gặp gỡ ấy, tôi cố tìm gặp sư thầy khắp mọi nơi, nhưng không bao giờ gặp lại nữa, nhiều đêm ngủ tôi trằn trọc tự hỏi không biết sư thầy có phải là bóng ma của con chồn tinh về chọc ghẹo những đứa con gái nhà lành như tôi. Tôi hỏi thăm những người trong trại, không ai biết sư thầy đó là ai!
    Tôi ở đảo Songkla chừng hơn nửa năm, được phái đoàn Mỹ phỏng vấn, rồi được bảo lãnh thẳng sang Cali nơi cha mẹ tôi đang ở. Tôi phải lo học lại từ đầu, tất cả những kỷ niệm trên đảo được nhấn chìm tận đáy tâm hồn vì tôi không còn thì giờ để suy nghĩ chuyện gì khác nữa ngoài việc học, đi làm thêm buổi tối để trang trải cho cuộc sống.
 
***
 
Mười năm sau đó, tôi ra trường về ngành quản lý doanh nghiệp, cuộc sống tất bật lo toan. Những người bạn trai đến với tôi rồi đi, không ai để lại trong tôi một nỗi nhớ băn khoăn nào cả.
    Công ty tôi làm về may mặc những bộ quần áo suit cho đàn ông, tôi làm trong ngành quản lý, coi về doanh số thu mua, mướn người mới v..v… Đã ba năm nay chúng tôi làm việc dưới quyền David, một quản lý người bản địa, ông thật dễ tính, lúc nào cũng vui vẻ cười đùa, mua đồ ăn sáng hay café cho chúng tôi, nhưng chẳng bao giờ ông nhắc nhở về những con số tăng giảm của thị trường cả, hình như ông không muốn gây nỗi stress lên những nhân viên, những người làm công ăn lương nên ông giữ tất cả trong lòng chỉ một mình ông lo thôi.
    Bỗng một hôm ông họp chúng tôi lại và nói:
    – Sáng mai mọi người hãy đến sớm một chút, cả sở chúng ta cùng chào đón ông Wanchai, ông là người chủ chính thức vừa về nước sau những năm làm việc ở Thái Lan, ông rất giàu kinh nghiệm trong việc quản lý và phát triển công ty…
    Sáng hôm sau, xe tôi bị hư trên freeway, tôi không thể nào đến sở sớm để dự buổi họp, nên không biết mặt ông chủ Wanchai là ai; khi tôi sửa xe xong đã vào buổi trưa, mọi người cùng ăn trưa ở dưới nhà ăn với nhau, tôi phải nhanh chóng vào phòng lập tức để mở máy chạy bản phân tích bán mua cho công ty để chút nữa còn giao cho David.
    Tôi làm nhanh nhanh vì sợ trễ giờ buổi chiều còn nhiều công việc, ly café mới mua xong để ngay giữa bàn đụng vào những giấy tờ ngổn ngang, đổ ào xuống mặt bàn, tất cả ướt nhẹp, cả tập hồ sơ mới in xong cũng thấm đầy café! Tôi thật khổ sở vì đã quá vội vàng muốn in cho nhanh làm luôn công việc chậm trễ buổi sáng nên mới ra nông nỗi, thật là muốn khóc luôn vì máy thì in chậm cà rịch cà tang, thêm ly café đổ hết thế này phải làm lại từ đầu thật mất công lắm!
    Mặt đang xị không vui tí nào, tôi nghe tiếng nói quen thuộc trầm ấm sau lưng:
    – Cô có cần tôi giúp gì không?
    Đang không vui tôi trả lời sẵng giọng mà không quay lại nhìn ai:
    – Không thấy café đổ đầy bàn hay sao, hãy giúp tôi đem cái khăn sạch lại đây hay cuộn giấy gì đó có được không?
    – Oh hay cầm tạm cái khăn này được không…
    Tôi chỉ để ý đến cái khăn tay đưa ra trước mặt, màu xanh dương thật sạch, đẹp, thơm mùi nước hoa đàn ông mà tôi vẫn thích khi vào những tiệm mua sắm. Tôi vội ngẩng lên xem chủ nhân của chiếc khăn là ai.
    Chúng tôi nhìn nhau thật lâu, thật chậm, thời gian ngọt ngào như ngưng đọng lại, từng giọt café trên bàn đang nhiễu xuống đất, vang lên tong tong, khuôn miệng tôi mở tròn, cặp mắt tôi căng giãn ra. Tim đập loạn xạ. Ai thế này, là ai đây? Người của quá khứ đang đứng trước mặt tôi thật bất ngờ và hạnh phúc làm sao! anh ta cũng quá đỗi ngạc nhiên. Cặp mắt một mí dài, êm đềm như hồ nước, chiếc mũi cao vừa phải trên khuôn mặt cương trực, tôi không bao giờ có thể quên được câu hỏi của chàng hôm ấy:  “Nếu có một điều ước, cô muốn ước gì?”
    Tôi lắp bắp:
    – Anh… anh… đi đâu đây?... Tại sao anh lại ở đây?
    – Cô… cô làm ở đây sao?
    – Anh không thay đổi chút nào, chỉ có là cao hơn và có da có thịt hơn thôi…
    – Cô thì đã lớn lên nhiều, trở thành thiếu nữ duyên dáng xinh đẹp rồi, nhưng vẫn còn nét ngây thơ của ngày xưa, đôi mắt và khuôn mặt vẫn không đổi, tôi nhận ra ngay!
    – Anh mới xin vào làm đây à? … anh ngồi ở phòng nào vậy?
    – Cô là người mướn tôi vào sao?
    – Tôi sao? Tôi mướn hồi nào chứ, trong này đã đủ nhân viên rồi mà!
    – Vậy sao còn hỏi tôi là mới xin vào đây?
    Tôi gãi gãi đầu thẹn thùng vì thấy chàng lém lỉnh hơn xưa;
    – Tại … anh làm tôi quýnh nên quên hết đó! Nếu anh không phải là nhân viên mới thì … anh là ai?
    – Hồi sáng nghe nói xe cô bị hỏng phải không? bây giờ thế nào rồi?
    – À vâng, xe tôi bị hư nên phải đem đi sửa mới vào trễ, vội vàng làm bù nên mới làm đổ café như thế này đây!... Thôi chết rồi, tôi lại chưa lau café đang đổ ướt hết giấy tờ rồi kìa.
    Chàng nhoẻn cười hiền hòa, lần đầu tiên gặp lại, tôi cảm nhận được trong nụ cười của chàng như có ngọn lửa nhỏ đốt cháy trái tim tôi. Tôi ngây người nhìn chàng, trái tim tôi loạn nhịp, tôi xoắn lấy chiếc khăn tay mà chàng đã đưa lúc nãy, cảm thấy thật thừa thãi. Chắc chàng cũng cảm thấy thái độ lạ lùng của tôi, nên vội ngồi xuống lau dùm tôi ly café bị đổ bừa bãi ra bàn và cả dưới đất.
    Sau khi họp ban lãnh đạo sở, tôi mới biết chàng là giám đốc có 60% cổ phần trong công ty tôi làm, và tên là Wanchai!
    Những ngày nối tiếp sau đó, tôi cảm thấy như có một động lực mạnh mẽ cho tôi dậy sớm về khuya đi làm việc, thật hạnh phúc mỗi lần bước vào sở làm, đi ngang qua phòng làm việc và thấy bóng chàng cặm cụi ngồi đó từ rất sớm đọc hồ sơ. Tôi vô cùng thắc mắc chàng đã không còn làm sư thầy nữa hay sao? chàng đã đi đâu làm gì trong cả chục năm nay để bây giờ xuất hiện giàu có như thế, so với ngày trước chàng không đủ tiền nuôi bà ngoại bệnh, cả thuê căn nhà ở cho khang trang? Tất cả những câu hỏi này tôi đành chôn kín chờ khi có dịp sẽ hỏi thôi.
    Wanchai là một ông chủ trẻ rất hòa đồng, vui tính, quan tâm đến phúc lợi của nhân viên, chàng hay đề nghị những chuyến đi chơi với mọi người để có thêm tình thân, tổ chức những đội bóng đá, chèo thuyền, chụp hình cho mọi người vui chơi cuối tuần. Kỳ này chàng đề nghị đi thác nước Niagara ở New York, gần như cả sở ai cũng hân hoan vì phần lớn những công nhân trẻ di cư từ những nước nghèo đến chưa bao giờ có dịp đến nơi này. Chàng mướn một chiếc xe bus lớn 20 chỗ ngồi cho tất cả nhân viên ngồi chung nhau, ăn uống và kể chuyện vang rần trên xe thật vui.
    Đến thác nước hùng vĩ thật tuyệt vời này, mỗi nhóm chia ra đi chơi riêng, hẹn sẽ quay về xe lúc buổi chiều khoảng 3:00 để về lại công ty.
    Tôi đang lang thang một mình ở một góc ít người để dễ quay lại thác nước, tôi nghe tiếng chân nhẹ bước bên cạnh, tiếng nói trầm ấm vang lên:
    – Em …hãy đứng vào cạnh bờ đá kia đi, anh chụp cho!
    Tôi ngượng ngùng nhưng trong lòng rất thích lời đề nghị này, vội vàng nhẩy lên bờ đá khá cao sát cạnh thác nước, định bụng sẽ đứng lên đó giang hai tay rộng ra như cô đào Rose trong film Titanic vậy, tiếc là chỉ thiếu anh kép mà thôi, chưa kịp nhẩy lên thì đã bị vấp cái áo đầm dài, té bật ra phía sau, Wanchai đã giang tay đỡ lấy, ôm trọn tôi vào lòng.
    Ngay lúc ấy hai cặp mắt chúng tôi quấn lấy nhau như muốn nói vạn điều của trái tim!
    Anh dìu tôi ngồi xuống ghế cạnh đó và trải lòng:
    – Anh bị mẹ bỏ ở trước cửa chùa khi mới sanh ra vì quá nghèo và không biết cha là ai, nhờ Hòa Thượng ở chùa đó nuôi lớn, đến năm 16 tuổi thì bà ngoại đến xin anh ra để nuôi bà bệnh, anh không biết mình có bà ngoại và cũng chưa bao giờ gặp bà, nhưng nghe bà nói bà bệnh cần anh chăm sóc thì dù không phải bà ruột của mình, anh cũng theo để săn sóc bà. Khi anh 22 tuổi, gặp em trong trận mưa bão định mệnh ấy, đêm đó bà ngoại đã lên cơn sốt, qua đời. Anh cảm thấy cả thế giới như xụp đổ, cuộc sống quá mong manh, người thân duy nhất không còn, nên không muốn liên lạc với ai nữa. Bỗng Hòa Thượng gọi anh về chùa gấp, có người muốn gặp anh, đó là người mẹ đã bỏ anh ra đi từ lúc vừa lọt lòng, bà bây giờ rất giàu có, được thừa kế một gia sản kếch xù của người chồng Mỹ, ông ta lớn tuổi hơn bà rất nhiều, ông đã qua đời; bà muốn về Thái tìm lại đứa con đã bỏ rơi để nuôi đi học lại và chia sẻ cuộc sống giàu có hòng bù đắp mọi tội lỗi của những tháng ngày khổ sở vừa qua.
    – Mười năm qua anh đã ở cùng với mẹ phải không? bà ở Thái hay ở Mỹ?
    – Hiện giờ bà đang ở bên Thái, trông coi một hãng sản xuất khá lớn vải vóc, anh đã ra trường về quản lý xí nghiệp như em vậy, làm giám đốc bên đó năm năm rồi mới qua đây. Hãng bên Boston này do mẹ anh đã đầu tư 60% cổ phần chung với những người bạn rủ làm ăn, có thể sau này anh sẽ mua lại hết để mình quản lý luôn.
    – Chúc mừng anh đã đoàn tụ với mẹ, chúc anh sẽ có một cuộc sống từ nay sẽ thật nhiều may mắn nhé!
    – Anh sẽ … hạnh phúc hơn nữa nếu anh được đeo chiếc nhẫn này vào bàn tay trái của em dưới sự chứng kiến của thần thác hùng vĩ thiên nhiên đang chảy trước mặt chúng ta đây mà anh rất tin sẽ là thần hộ mệnh tình yêu, anh hứa trước dòng thác này sẽ đem lại cuộc sống tốt nhất cho cả hai ta…
    Tôi để nguyên bàn tay trái của tôi trong tay chàng khi chàng cầm lên đeo cho tôi chiếc nhẫn lấp lánh tuyệt đẹp, vô cùng ngạc nhiên lẫn sung sướng và hạnh phúc lan dần vào trong tim giữa màn nước nhỏ li ti bắn vào người của hai chúng tôi đang sát cạnh nhau, hai dòng lệ nóng hổi vì cảm động, vì sự chờ đợi mong ước của tôi từ rất lâu đã được ông Trời run rủi!
 
***
 
Cuộc sống cứ thế trôi qua, 40 năm một đời chung sống, chúng tôi chỉ có một đứa con gái duy nhất, nay đã lớn lập gia đình và ra ở riêng, chúng tôi sống trong hạnh phúc nhẹ nhàng trân quý tôn trọng từng ngày.
    Bây giờ vào tuổi hưu, chàng quay về kiếp tu, thiền, ăn chay, vẫn không quên được những bài tụng niệm vào đầu ngày; mỗi lần nghe tâm hồn tôi được bình an xoa dịu.
    Hôm nay từ trên tầng cao nhìn xuống dòng thác cuồn cuộn chảy, niềm xúc động, ký ức xưa tràn về.
 
Trên đường quần ngựa, chiều kia…
Em ơi, anh muốn dựng bia ân tình
Khi anh qua đó một mình
Thấy còn in bóng in hình đôi ta (Kỷ Niệm, Xuân Diệu)
 
– Sỏi Ngọc

Mar. 29, 2024


Tuesday, August 27, 2024

Tình Ca Quê Hương - Kim Chi

 Click Vào Đây - Nhạc phẩm Tình Ca Quê Hương/Ca sĩ Kim Chi 

Sinh nhật 2024 của tôi. Thái Huỳnh


Hôm nay sinh nhật của tôi, nhằm lúc tôi đang ở San Antonio Texas USA, thường thì ngày nầy, ít khi tôi ở Mỹ. Hôm nay con trai Thông của tôi về từ Austin Texas, đãi tôi cơm tối, mừng sinh nhật.

 
Thông đãi sinh nhật tôi ở nhà hàng.

Thông mới lái xe điện Tesla nầy đi làm việc ở Cali mới về (6000 miles).
Thông đưa tôi ra xa lộ IH35. Xa lộ vắng hoe, Thông tống ga và xe phóng nhanh như hoả tiễn! Xe nầy 600 mã lực và dòng điện 816 volts (chết người), dễ sợ quá! Bình điện nầy được bọc kín, nếu cần sữa chửa thì đem đến tiệm, không nên mò mẫm tự sữa chửa, sơ sót chết không kịp nháy mắt. Nên nhớ dòng điện trong nhà chỉ có 110 volts hoặc 220 volts! ./.  

Friday, August 23, 2024

Huế và Em - Hồ Quang

 Click Vào Đây - Nhạc phẩm Huế và Em /Ca sĩ Hồ Quang

Sunday, August 18, 2024

QUÊ MẸ - LƯƠNG NGUYỆT ANH

 Click Vào Đây - Nhạc phẩm QUÊ MẸ/Ca sĩ LƯƠNG NGUYỆT ANH

Wednesday, August 14, 2024

Việt Nam Quê Hương Tôi - Diệu Đan

 Click Vào Đây - Nhạc phẩm Việt Nam Quê Hương Tôi/Ca sĩ Diệu Đan

Friday, August 9, 2024

Chiều Qua Phà Hậu Giang - Mộc Anh

 Click Vào Đây - Nhạc phẩm Chiều Qua Phà Hậu Giang/Ca sĩ Mộc Anh

Monday, August 5, 2024

Tham quan Montreal và Longueuil Canada

Cô em chú bác, bác sĩ Huỳnh Thị Kim Chi, chủ hai bịnh viện ở Bình Dương, đang ở Longueuil Canada, rủ tôi qua Longueui chơi. Tôi đang ở San Antonio Texas. Tôi rủ anh chị BS Thanh ở Houston, bồ tèo của tôi. Anh chị Thanh cũng quen thân với BS Chi, qua tôi. 

Tham quan Canada ngày 1.

Thế là tôi và anh chị Thanh mua vé máy bay qua Canada chơi một tuần. Chúng tôi đáp máy bay ở Montreal. Montreal là cái đảo, cách Longueuil con sông. Đây là lần thứ 6 tôi đến Canada. Tôi đến Vancouver Canada 2 lần, Toronto Canada 2 lần và Quebec và Longueuil Canada 2 lần. Xứ Canada rộng mênh mông như xứ Mỹ nhưng Canada ở phía Bắc nước Mỹ nên Mùa Đông Canada lạnh đã luôn! Chúng tôi đáp máy bay ở phi trường Montreal (YUL). Vợ chồng BS Chi và vợ chồng cháu Cúc, ra phi trường đón chúng tôi. Cúc là cháu gọi BS Chi là dì ruột. Cúc cũng là cháu gọi tôi bằng Cậu họ.

Từ trái: vợ chồng BS Khôi & BS Chi, vợ chồng Cúc & Hoà, 
vợ chồng chị Hương & BS Thanh.
Bữa cơm tối đầu tiên ở nhà BS Chi. 

Tham quan Canada ngày 2.

Cúc là thổ công ở Canada. Năm 1974 gia đình cho Cúc qua Canada du học. Rồi ngày 30 tháng 4, 1975, Cúc ở lại Canada luôn. Sau đó gia đình Chú 5 của tôi lần lượt vượt biên hoặc bảo lãnh,  đoàn tụ với Cúc. Những người nầy học chương trình Pháp, nên họ chọn Quebec, Montreal và Longueuil để định cư. Vì những nơi nầy dùng tiếng Pháp. Xứ Canada dùng hai ngôn ngữ Anh và Pháp.  

Cúc đưa gia đình tham quan một nhà thờ ở thành phố nhỏ Saint Sauver.
BS Khôi đang quỳ cầu nguyện.

Gia đình đi bộ lang thang trên phố Saint Sauver tìm nhà hàng ăn sáng.

Gia đình ăn sáng trong phố Saint Sauver. 
Từ trái vô: Chị Thanh, Bs Chi, Hoà, Bs Khôi, Cúc, Bs Thanh 

Tham quan Canada ngày 3.

Bs Chi mời gia đình đi xem xiệc 'Cirque du Soleil'.

Tham quan Canada ngày 4.

Ăn sáng ở nhà xong, gia đình lái xe đi Sand Banks cách Montreal khoảng 5 giờ lái xe. Tại đây, gia đình hẹn gặp gia đình Huỳnh Thế Mỹ về từ Hamburg Germany. Mỹ là em trai kế tôi. Mỹ di với vợ chồng con gái Trang & Minh.
Gia đình Mỹ đang tham quan Toronto Canada. Chúng tôi hẹn với gia đình Mỹ gặp nhau ở công viên ở Kingston, Ontario. 

Thái & Mỹ

Từ trái: Bs Chi, Bs Thanh, Mỹ, Thái.

Gia đình ăn trưa trong nhà hàng Pháp cạnh hồ Ontario.

Hổ Ontario rộng mênh mông. Hồ nầy nằm trên biên giới, một nữa thuộc Canada, một nữa thuộc Mỹ.

Gia đình ăn trưa trong nhà hàng Pháp cạnh hồ Ontario.
Ngồi từ trái: Anh chị Thanh, Hoà & Cúc, Trang & Minh, Mỹ, Chi.
Đứng: Khôi, Thái 

Từ trái: Trang, chị Thanh, Hoà & Cúc, Chi & Khôi, Mỹ, Thái, Minh, Thanh.

Gia đình ăn trưa trong nhà hàng cạnh hồ Ontarion xong. Gia đình check-in khách sạn ở Kingston, Ontario và chúng tôi ngũ một đêm. Chiều hôm ấy gia đình đi ăn cơm Tàu. Chúng tôi cười đã luôn.

Chúng tôi bước vô nhà hàng. Ông chủ hỏi Bs Chi, bao nhiêu người và ăn ở đây hay mua về nhà. Bs Chi nói 10 người và ăn ở đây. Ông chủ lắc đầu bỏ chạy vô bếp! Chúng tôi ngơ ngác không biết chuyện gì! Thì ra nhà hàng chỉ có một mình ông thôi. Thường thì ông bán cho khách mang về nhà. Nếu khách ăn ở tiệm 10 người một lúc, thì ông chỉ còn nước bỏ tiệm chạy trốn!
Sau cùng ông chủ từ trong bếp ra và chúng tôi gọi thức ăn. Chúng tôi 10 người và chúng tôi gọi thức ăn khác nhau. Ông chủ sợ buồn hiu!

Ngoài bảng menu treo vách tường nầy của nhà hàng, còn một menu nữa nằm trên bàn, chúng tôi đếm trên 100 món. Chúng tôi không biết bằng cách nào, một mình ông mà ông nấu được hết các món nầy!

Nhìn phía trên cửa tủ lạnh thấy "self service" nên cháu Trang mở tủ lạnh lấy nước cho gia đình, rồi tính tiền với ông chủ sau! Lần đầu trong đời, tôi thấy nhà hàng kiểu nầy. Chúng tôi cười quá trời!

Vô nhà hàng nầy, chúng tôi lấy vui làm đầu. Chúng tôi cười quá sức!

Thức ăn thì ông dùng dĩa, ly, hộp nhựa, để ông khỏi rửa. Dĩa, ly, hộp nhựa nào, ông cũng ém thức ăn chật cứng. Tôi kêu mì hoành thánh. Ông ém trên 10 cục hoành thánh to cở ngón chân cái, cộng với mì sợ nhỏ vào ly của tôi. Tôi tìm hoài không thấy nước lèo. Tôi dùng đũa móc hoành thánh và mì sợi ra ăn, no tức bụng, vậy mà ly của tôi vẫn còn hơn một nữa! Không một ai có thể ăn hết phần ăn của mình. Thức ăn dư ê hề và chúng tôi đem ra đường kiếm mấy người homeless để cho. Chúng tôi cười tức bụng!

Từ lúc tôi vô nhà hàng cho tới lúc tôi ăn xong, tôi thấy ông chủ buồn hiu, không cười. Khi Bs Chi trả tiền, tôi thấy ông cười lăng xăng! làm tôi vui lây! Một kỷ niệm để đời cho tất cả chúng tôi!

Tham quan Canada ngày 5.

Cúc đưa gia đình tham quan thành lịch sử Fort Henry, ở Kingston, Ontario. 

Bs Chi & Bs Khôi.

Từ trái: Thái, anh chị Thanh, Chi & Khôi, Mỹ, Minh & Trang, Cúc & Hoà.

Từ phải: Chi & Khôi, Cúc & Hoà, Mỹ, Thái.

Bên ngoài nhà Bs Chi. 
Từ trái: Chị 8, chị 6 của Bs Chi, cháu Trang, Thái, Bs Chi, Bs Khôi, Mỹ. 
(Bs Chi thứ 10 (út) trong gia đình.)

Cơm chiều ở nhà Bs Chi.
Từ trái: Bs Chi, chị Thanh, Minh, Mỹ, Bs Thanh, Thái, Bs Khôi.

Tham quan Canada ngày 6.

Gia đình ra ngoài ăn trưa,

Tôi đãi cơm chiều ở nhà hàng Papa Jackie.
Từ tôi vô: Thái, Bs Chi, Bs Khôi, vợ chồng anh 9 của Bs Chi, vợ chồng 8 Ánh con cô 4 của tôi, vợ chồng cháu Nghĩa con chị 3 của Bs Chi.

Từ phải: Nghĩa, Thái, Chi, Khôi, Châu (chị dâu 9 của Chi).

Từ trái: vợ chồng 8 Ánh con cô 4 của tôi, Mỹ, vợ chồng anh 9 của Bs Chi.

Từ anh Thanh (áo xanh), chị Thanh, Minh & Trang, Tuấn Trang con của chị 7 của Bs Chi,
chị 6 của Bs Chi, chị 8 của Bs Chi, vợ chồng Cúc & Hoà, chị 7 của Bs Chi (mẹ Tuấn Trang).

Từ trái: Chị 6 của Bs Chi, Tuấn Trang, Trang & Minh, chị Thanh.

Từ trái: Hiếu con chị 3 của Bs Chi, Hoà & Cúc, chị 8 của Bs Chi, chị 6 của Bs Chi.

Tham quan Canada ngày 7.

Hôm nay là ngày chót của chuyến tham quan Canada của tôi. Ngày mai tôi và anh chị Thanh về lại Texas USA. Bs Chi tổ chức tiệc tiễn đưa chúng tôi ở nhà Bs Chi. Gia đình tề tựu ở nhà Bs Chi, vui quá sức.  

Ba tôi thứ 3 và trưởng nam trong gia đình. Chú 5 em ba tôi, là Ba của Bs Chi. 
Chị 3 của Bs Chi, trước ngày 30 tháng 4, 1975, cho con gái Cúc qua Canada du học. Rồi ngày 30 tháng 4, 1975, cháu Cúc ở lại Canada. Ba Má Cúc, ngày 30 tháng 4, 1975 di tản qua Canada, đoàn tụ với Cúc. Lần lượt sau đó chị 3 của Bs Chi, bảo lảnh Chú Thím 5 và các em qua Canada đoàn tựu. Riêng Bs Chi vượt biển nhiều lần, nhưng thiếu may mắn.

Từ trái: Mỹ, chị 3 của Bs Chi, Thái, Khôi.
Chú 5 của tôi có 9 người con. Bs Chi thứ 10 và là út. Tôi cũng thứ 10 trong gia đình. Cô 3 má Cúc ngang hàng với chị cả của tôi và cô đã trên 90. Những người nầy có chồng lúc tôi miệng còn hôi sửa. Cúc ngang tuổi với Bs Chi. Hai dì cháu chơi thân nhau từ nhỏ. Có lần cô 3 và Thím 5 qua San Antonio Texas thăm tôi.

Hôm nay tôi gặp lại cô 3, dù đã trên 90, nhưng cô 3 còn minh mẫn, nhắc lại chuyện xưa, chúng tôi cười đã luôn. Thật là diễm phúc cho tôi, gặp lại bà con ruột thịt. Vì thời gian của tôi cũng sắp tới hồi kết thúc! 

Từ trái; Cúc, cô 3 má Cúc, Thái, Mỹ, anh chị Thanh.

Từ trái: chị 3 của Bs Chi, Bs Chi, Thái, Mỹ.

./.