Lớp tuyết bắt đầu cứng mặt, đôi chỗ trở thành băng mỏng, trơn như mỡ, giá không có núm đinh sắt dưới đế giày hay đôi vợt đặc biệt để di chuyển, chắc ít người muốn ra ngoài. Đã vậy, còn thêm thứ gió Bắc cực lạnh như cắt vào thịt; xuyên qua từng lớp áo da thú dày dặn, thấm vào tới xương …
Thời tiết băng giá tới độ làm tê cóng cặp vó uyển chuyển, nhẹ như không chạm đất của giống nai sừng dãng, là cơ hội thú vị của lũ chó sói. Chúng kéo đi từng đàn, ngay ban ngày, như những chấm nâu đậm trên làn tuyết trắng xóa, giữa cánh rừng thông bát ngát trong khoảng thung lũng chạy dài theo triền sông vùng cực bắc Gia Nã Đại.
Đây cũng là dịp may cho Dim nữa: anh có thể rời đất săn quen thuộc, mà chẳng sợ gặp ai. Cỗ xe của Dim khá tốt, gỗ nhẹ, đánh quánh như thứ sắt trui kỹ, lướt băng băng… Phía trước là đàn chó lực lưỡng, 8 con cả thảy, đang gò lưng, vươn cổ, sát bụng xuống mặt tuyết. Dim có tiếng khéo nuôi chó, sự chăm chút súc vật của anh được đền đáp xứng đáng; mỗi khi cần vượt chặng đường khó khăn, anh có thể tin tưởng vào đàn chó thuần thục của mình.
Thực ra, xe cũng chẳng chở gì nặng, toàn những thứ tay bẫy thú nào cũng đem theo: bánh khô, thịt sấy, đồ hộp, rồi súng đạn, chăn lều… Có điều lần này Dim tính đi xa, nên những hành trang lỉnh kỉnh này choán hết chỗ ngồi, khiến anh phải đứng phía sau xe.
Khuôn mặt gân guốc xưa nay của Dim lúc này giấu kín dưới vành mũ lông, chỉ hé lộ đôi mắt đen láy, sắc bén, dõi phía xa một cách lo ngại.
Không phải bây giờ Dim mới có vẻ tư lự: anh mất ăn mất ngủ từ 5 bữa rồi; ý nghĩ độc nhất trong đầu anh là: làm sao thoát khỏi tay nhóm trinh sát đặc biệt trong vùng, có vậy thôi!
Dim cũng chẳng có cách nào hơn là đi sâu mãi vào cánh đồng tuyết, mênh mông bát ngát, vắng vẻ như một thứ sa mạc băng giá.
Câu chuyện xảy ra trong tuần trước, nhanh chóng, bất ngờ như cơn ác mộng. Bữa đó, Dim xách nắm da thú vừa lột vào trong quán rượu… Trời lạnh dữ dội, Dim phải có chút gì cho ấm bụng. Anh lỡ tay xô phải một gã thợ săn khác đang say nhè… Gã chồm vào anh như con thú điên, lưỡi dao săn sáng loáng hoa lên như làn chớp dưới ánh đèn…
Dim chẳng thể nào làm khác được… Anh cũng chẳng có thứ khí giới gì trong tay. Tránh được nhát dao thứ ba của gã say, anh trả lại cho gã trái đấm như trời giáng vào cằm. Không may cho Dim, gã say rượu không còn sức đứng vững, gã ngã vật xuống, đầu đập vào cánh cửa!…
– Cạn ly rồi “chuồn” ngay đi, nếu chú không muốn rũ xương trong tù!
Đó là điều chẳng bao giờ Dim muốn: xa cánh đồng tuyết bao la với đàn chó, chiếc xe, hàng bẫy cùng những tấm da chồn, da sói mướt như nhung, Dim sẽ héo hắt chết mất!
Ngoài kia, anh chưa kịp tháo hành trang, tất cả đều sẵn sàng cho chuyến khởi hành vội vã. Chỉ nửa phút sau, Dim đã bám vào thành xe, vung chiếc roi da làm thành tiếng quất khô, gọn, ròn tan, thúc giục đàn chó băng mình vào màn tuyết.
Trời u ám thêm, có vẻ bớt lạnh đôi chút: đó mới là điều đáng ngại. Kinh nghiệm đã dạy cho Dim như vậy, cái ấm dịu của không khí lúc này chỉ là điềm báo trước cơn bão tuyết ghê gớm sắp tới.
Tiếng roi da dồn dập hơn, đàn chó cũng chạy nhanh hơn: anh cần đến cánh rừng thông trước khi trời nổi gió. Khu rừng bát ngát, làm thành một vệt xanh thẳm tít đằng xa. Trước đó là dải lụa bạch, trắng màu bạc, uốn lượn giữa cánh đồng mênh mông. Dim nhận ra dòng sông quen thuộc lúc này đã đóng băng, lấp lánh như mảng gương dưới chút ánh sáng thoi thóp.
Chẳng mấy tay thợ săn vượt sông khéo léo như Dim: anh có cặp mắt nhận xét tinh tế để chọn lựa nước bước của đàn chó trên mặt băng; một chút màu sắc, vài đường rạn nứt đủ để anh nhận ra chỗ nào nên tránh, nên đi. Lũ chó hào hển, dài cổ, chúi mũi về trước, dò dẫm đặt từng bước giữa lớp đá mỏng, đôi chỗ sắc nhọn như thứ gai của cây rừng.
Dim vất vả chẳng kém: anh vừa đẩy, vừa kéo, lúc bên phải, lúc bên trái, nậy vài viên đá, gỡ vài sợi dây, hò hét như quát tháo với đàn chó thấm mệt.
Chiếc xe qua sông bình yên… Trời đổ tối thực mau, một phần vì mây đen ở đâu dồn tới, nặng trĩu nền trời. Gió bão bắt đầu… Từng mảng tuyết bốc tung, tơi tả trong cơn lốc… Nhưng rừng thông đây rồi, những thân cây lớn, thẳng tắp với lớp cành vươn thấp và tàn lá dày dặn, là nơi trú ẩn chắc chắn nhất giữa cơn giông tố.
Trận bão tuyết dịu đi vào khoảng nửa đêm. Lớp váng trên mặt sông có thêm lượt tuyết dày. Cánh đồng trắng xóa, bát ngát, trở lại vẻ bình thản thường nhật.
Dim dậy sớm lắm, anh còn chặng đường dài phải vượt để kịp tới biên giới trước khi trời tối. Ra tới ven rừng, Dim ngước nhìn phía chân trời một cách lo ngại: khí hậu mùa này thay đổi bất ngờ, thêm trận bão tuyết nữa là không khéo phải nằm đường!
Chợt anh nhíu mày, hồi hộp lạ lùng: tít đằng xa, bên kia sông, có một đốm đen di chuyển thực nhanh lại phía anh. Có vẻ chiếc xe thì phải, nhưng xe ai đây?… Thợ săn hay trinh sát?
Dim chẳng lạ gì cái dẻo dai của nhóm cảnh-bị đặc biệt miền này; đôi khi họ theo phạm nhân cả tuần, cả tháng, như con sói đói rượt mồi, cho tới khi đắc thắng mới nghe… Mưa gió, bão tuyết… Mặc! Họ chỉ biết có nhiệm vụ phải hoàn tất.
Nếu là trinh sát thì đáng ngại cho Dim lắm: anh không còn đủ thì giờ thu xếp hành trang; chiếc lều vải với đống chăn chưa kịp gấp, đàn chó còn chúi dưới đống tuyết, bình cà-phê còn sôi bỏng trên đống than hồng…
Dim dán mắt vào cỗ xe… Đúng hai xe kềnh càng của người quen đi xa với đàn chó đông đảo, 12 con… Như vậy hơn Dim tới 4 con!… Dù cho anh có chạy trước cũng khó thoát lắm!…
Con người quen sống cuộc đời tự do với gió núi, mây ngàn, chợt cảm thấy cái tù túng ngột ngạt của nhà giam…
Dim thở dài… Chẳng lẽ số kiếp anh vậy sao?… Bao giờ cũng bị dồn vào bước đường cùng… Anh nào muốn đấm chết gã say rượu để sống cuộc đời lẩn lút, lúc nào cũng thấp thỏm như cá nằm trốc thớt thế này!… Và bây giờ… nếu anh muốn thoát được tới biên giới, chắc chắn phải có kẻ bỏ mạng!
Đôi mắt Dim bốc lửa, anh lẳng lặng nép mình sau thân cây, hai tay sắt thép ghì chắc khẩu súng, sẵn sàng nhả đạn …
Cỗ xe lạ lúc này bắt đầu vượt sông. Lớp tuyết dày hàng thước, che kín mặt băng làm chuyến sang ngang trở nên khó khăn. Đàn chó ngập trong tuyết tới cổ, nhúc nhích một cách vất vả, đôi lúc Dim có cảm tưởng chúng ngụp lặn giữa làn tuyết. Anh nhún vai:
– Ngu quá!… Ai đời chọn khúc sông rộng nhất mà vượt bao giờ!
Người dong xe, hết chạy trước, chạy sau, lại lom khom đẩy xe hay hò hét lũ chó, thấy cũng tội!
Chợt có tiếng rạn nứt của khối băng trên mặt sông… Dim chẳng lạ gì thứ tiếng ghê rợn này, nghe khô khan như tiếng súng, nhưng tai hại hơn nhiều: nó làm mặt đá vỡ đôi, và kéo xuống sông vật gì dại dột đi ngang đó… Anh đoán không sai: cỗ xe khựng lại rồi nghiêng về một phía… Gã lạ mặt nhoai người ra đỡ… Y hụt chân khuỵu xuống đó, bị chiếc xe đè lên… Trong nháy mắt, cả người lẫn một phần xe chìm dưới nước…
Dim lao mình về phía sông, quăng lại cây súng lúc này trở thành vô dụng … Mới vài phút trước đây, ý định giết người còn cháy trong lòng, nhưng bây giờ, phải cứu người gặp nạn trước đã!… Dim nghĩ vậy. Bao năm sống ở miền đồng tuyết, anh thấm nhuần hồi nào thứ luật được mặc nhiên công nhận của người miền này… Trong hoạn nạn, coi nhau như ruột thịt!… Có như vậy mới sống nổi!
Cỗ xe đã ngập quá nửa dưới nước.
Dim chạy như bay… Anh rút vội lưỡi dao săn bên sườn … Choàng nhanh lấy vai người đánh xe giật mạnh về phía sau… Một tay lia dao cắt đứt những sợi dây da cột thân xe với người, với đàn chó… Dim cử động như chiếc máy… Anh có khoảng nửa phút để làm công việc này… Người lạ mặt ngất đi hồi nào, có lẽ vì đập vào đá, cũng có thể bị xe đè lên hay bị lạnh quá… Thân hình cứng đơ của y chẳng còn chút sức lực nào. Chiếc áo lông trễ sang một bên, để lộ mảnh áo đỏ chói bên trong, thứ áo của cảnh sát đặc biệt miền đồng tuyết!
Khám phá bất ngờ này làm Dim bối rối lạ lùng…
Lưỡi dao sắt như nước ngừng lại trên khoảng không. Anh có nên cứu sống tay sai của pháp luật đang tróc nã mình chăng?… Có nên giúp đỡ người mà lát nữa đây sẽ trả ơn bằng cách điệu anh vào tù chăng?
Đối với Dim, cách giải quyết thực dễ dàng: Anh chỉ việc đừng cắt nốt mớ dây da lòng thòng dưới tay, cả cỗ xe, cả đàn chó, lẫn người theo xe sẽ kéo nhau chìm xuống đáy sông… Làn băng khép lại… Thế là chẳng ai còn nghe nói tới kẻ xấu số này nữa!
Nhưng để chết một người gặp nạn, lạnh lùng như vậy được chăng?…
Trước đây, vì tự vệ Dim mới phải ra tay, anh nào muốn giết người!… Nhưng lúc này bỏ mặc gã trinh sát chết chìm là một hành động sát nhân thực sự, chẳng sao chối cãi được!
Không, Dim không thể làm như vậy!
Anh vung dao một cách quả quyết, chặt đứt hai sợi dây chót, rồi hết sức lôi gã đánh xe khỏi hồ nước. Đàn chó vọt về đằng trước… Cỗ xe chìm lỉm trong nháy mắt …
Lúc này nạn nhân đã nằm dài trong lều vải, bên cạnh chiếc bếp cồn tỏa làn hơi ấm áp. Dim thong thả cởi áo choàng, nắn khắp người y… Chẳng có vết thương nào, cũng chẳng chân tay nào bị gãy, thực may!
Anh lấy bình rượu mạnh rót một chút vào kẽ răng nghiến chặt dưới vành môi thâm tím… Một lát sau, người lạ mặt rên rỉ rồi mở được mắt …
Dim ghé sát mặt y:
– Sao!… Dễ chịu chứ?
Gã ngơ ngác nhìn quanh… Khi nhận được Dim, gã nhoẻn cười, mệt nhọc:
– Dim đó hả? Anh cứu tôi phải không?
Dim gật đầu, mặt buồn thiu:
– Anh thụt trong hố băng… Cỗ xe còn dưới đáy sông… Tôi chỉ kịp kéo anh lên và thả được đàn chó, thế thôi!
Có tiếng thở dài của gã trinh sát:
– Cha!… Vất vả thực… Dim à!… Từ 5 bữa nay, tôi kiếm anh, biết không?
Dim nhăn nhó:
– Biết… Sao không!… Biết anh bắt tôi vào khám chớ gì!
Đến lượt gã trinh sát ngạc nhiên:
– Bắt anh vào tù?… Bộ anh điên hả?
Gã nhổm dậy, toét miệng cười một cách thích thú:
– Tôi tìm anh để giao lại phần thưởng của cảnh sát đặc biệt… Anh không biết sao?
Dim như người ngủ mê… Hình như có lớp sương mù dày đặc bao trùm mọi chuyện xảy ra… Hay là gã nói rỡn để trêu anh?
Dim vỗ mạnh vào vai gã:
– Phần thưởng!… Mà thưởng chuyện gì chứ?
– Chuyện Ba Dao đó!… Gã say rượu anh đấm chết bữa nọ là Ba Dao, tay anh chị khét tiếng miền Đông… Cảnh sát treo giải thưởng 5 ngàn đô cho ai hạ được từ 2 năm nay rồi đó, cha nội ạ!
Rồi y phá lên cười trước vẻ ngơ ngác của Dim:
– May ơi là may… Cú đấm của anh đáng giá 5 ngàn đô, ghê chưa!
Gã móc trong túi ra xấp bạc:
– Đây, ký giấy rồi nhận tiền đi, cha!
Dim như chẳng nghe thấy anh nói gì … Đôi má anh nóng bừng, Dim có cảm giác đang đứng gần đống lửa … Gã trinh sát tưởng chừng anh đỏ mặt vì sung sướng, nhưng trong thâm tâm Dim biết rõ anh đang xấu hổ ghê gớm vì đã suýt phạm vào thứ tội lỗi kinh tởm nhất đời… Anh đã toan giết oan người đem no ấm cho cuộc sống thất thường của mình!…
Dự án X của ông Elon Must, đang chế tạo máy bay chở hành khách, có thể bay với vận tốc siêu thanh nhanh tới Mach 5 (1715m trong 1 giây), gấp 5 lần vận tốc âm thanh. Với vận tốc nầy, từ New York tới Tokyo mất 2 giờ, trong khi đó hiện tại mất 14 giờ.
Máy bay nầy sẽ bay ở độ cao 30000m (98425.197 foot). Ở độ cao nầy khí loãng, giảm ma sát nên bay nhanh và ít tốn nhiên liệu.
Tình cờ tôi thấy video nầy trong mạng. Video nầy nói về đường chỉ tay "Thiên Nhân Hợp Nhất". Tôi nhìn hai bàn tay tôi. Tôi thấy tôi có đường tâm đạo y hệt như trong video. Nhớ lại quá khứ, đời tôi thật sự gặp nhiều may mắn kỳ lạ. Rất nhiều lần, tôi như đã bước lên bàn thờ, rồi như có đấng linh thiêng nào đó đã dẫn tôi xuống bàn thờ. Và mọi việc trôi qua êm xuôi.
Quý vị coi video, rồi xem hai bàn tay mình có đường tâm đạo đó không. Kiểm chứng cho vui, chứ việc gì qua, nó cũng đã qua rồi!
Tuy nhiên ai còn độc thân, thấy người tình có đường tâm đạo nầy thì kết liền nhe! "Thiên Nhân Hợp Nhất" Trời kết hợp mà! Riêng tôi thì không còn thời gian nữa! Thôi thì chờ kiếp sau vậy! Nếu kiếp sau tôi làm người, tôi sẽ áp dụng đường tâm đạo nầy để chọn người hôn phối! Nhưng đường tâm đạo là yếu tố phụ. Chuyện vợ chồng, hợp nhãn, hợp tính phải là yếu tố chính. tth
Đọc chuyện nầy, đến chổ cô em nói "Dạ, anh Hai của em hổng phải tên Biển Cả", tôi không nín được cười và tôi cười ra tiếng! Trời Đất! Đất nước ViệtNam thương yêu của tôi, sao mà có đủ thứ hoàn cảnh...! giọng văn Miền Nam rặc, dễ thương quá! tth
Có Những Tháng Ngày Như Thế ...
Anh Hai của tôi, sau chuyến vượt biên thất bại, bị giam ở nhà tù Bình Đại Bến Tre chín tháng, khi trở lại trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ mới biết đã bị cắt hộ khẩu, mất việc làm, bèn quay về Sài Gòn sống tạm với gia đình, chờ cơ hội vượt biên tiếp theo.
Một hôm, anh bị cơn sốt rét tái phát hành hạ, (hậu quả của những ngày trong trại giam), cần phải đến bệnh viện chữa trị, nhưng hộ khẩu không có, anh bèn mượn cái Sổ Sức Khỏe của thằng cháu (con bà chị họ ở kế bên nhà), để đi khám bệnh.
Hồi đó, mỗi người trong sổ hộ khẩu đều có một Sổ Sức Khỏe, bên ngoài bìa ghi vài thông tin tổng quát, gồm họ tên, tuổi bao nhiêu, và địa chỉ thường trú. Thằng cháu mới 9 tuổi, anh lấy cây viết cùng màu mực với số 9 rồi viết thêm số 2 đàng trước rất phù hợp với độ tuổi của anh (anh thực sự 28 tuổi), nhưng cái tên của thằng cháu khá “đặc biệt” làm anh hơi ngại ngần. Ba của nó tên Hoàng, là Đại Úy Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa. Lúc bà chị họ của tôi sanh thằng nhỏ thì ảnh đang “lắc lư con tàu đi” tác chiến ở vùng sông nước Hậu Giang và nhắn vợ đặt tên con là Lê Hoàng Biển Cả, coi như kỷ niệm tình yêu sự nghiệp đời Lính của anh.
Anh Hai mượn Sổ Sức Khỏe của cháu, vì anh không còn chọn lựa nào khác. Ba người anh còn lại của tôi, một anh đã vượt biên đang ở Mỹ, hai anh khác học xong Đại Học ra trường đi làm ngoài tỉnh nên hộ khẩu ở chỗ làm. Anh Hoàng, chồng bà chị họ mới “học tập cải tạo” về nhà, còn trong thời hạn bị địa phương quản chế nên có cho vàng anh Hai cũng không dám mượn sổ, không muốn gây thêm liên lụy cho anh rể. Ba tôi, cũng mới nằm bệnh viện cả tháng chữa bệnh bao tử nên cái Sổ Sức Khỏe đầy chữ viết bệnh án của bác sĩ, anh không thể mượn sổ của ba vì dễ bị phát hiện. Chỉ còn đứa cháu 9 tuổi, cái sổ còn trống trơn. Bà chị họ sốt sắng đưa anh cuốn sổ của thằng Biển Cả, bảo anh cứ liều... “mạng cùi” đến bệnh viện, cùng lắm thì anh bị trở vào tù, chớ ai lại bắt thằng bé 9 tuổi?
Thế rồi cũng êm xuôi trót lọt, anh được điều trị cắt cơn sốt rét tại bệnh viện, thời gian dự trù khoảng hai tuần. Tôi đang học lớp10, đường đi đến trường có ngang qua bệnh viện, nên có một buổi chiều sau khi tan học, tôi ghé thăm anh. Gặp tôi, anh vui vẻ tươi tỉnh, biểu tôi gửi xe rồi cùng anh đi dạo ra ngoài vì cả tuần qua anh còn mệt nên chỉ loanh quanh trong bệnh viện.
Hai anh em tản bộ về hướng chợ Xóm Mới, mải mê nói chuyện, đến cổng nhà thờ Hoàng Mai thì tôi nghe tiếng gọi:
- Anh Biển Cả! Anh Biển Cả!
Sau vài giây khựng lại, tôi liền nhớ ra, quay qua anh Hai:
- Anh Hai ơi, có người gọi anh... Biển Cả kìa!
Anh ngưng nói chuyện, cố tìm trong ráng chiều chạng vạng người nào đã gọi anh, thì một cô gái đi nhanh về hướng chúng tôi. Anh nhận ra, cười tươi và giới thiệu:
- Em ơi, đây là cô Hoài, người y tá chăm sóc anh ở bệnh viện. Còn đây là Loan, em gái của tôi học ở trường Nguyễn Trung Trực gần đây nên ghé thăm tôi.
Chị Hoài hỏi thăm tôi vài câu, rồi nói:
- Anh Biển Cả và Loan chờ đây nhe, em chạy vào trong nhà một chút.
Chị chạy vào trong hẻm nhà thờ, lát sau mang ra một túi đồ dúi vào tay tôi và nói với anh:
- Bữa nay nhà em có đám giỗ, em tính sáng mai mang đến bệnh viện chút trái cây để anh dưỡng sức, nhưng bây giờ gặp thì đưa luôn, có thêm miếng xôi vò, chả lụa và mấy cái bánh ngọt, hai anh em cùng ăn cho vui nha.
Tôi chần chừ, chị Hoài nói tiếp:
- Lộc đám giỗ thôi mà, vả lại, chị muốn cám ơn anh Biển Cả dạy kèm English cho chị.
Anh Hai gật đầu nên tôi cầm lấy bịch thức ăn. Trên đường trở về bệnh viện, anh kể, cái tên Biển Cả làm anh ... nổi tiếng trong bệnh viện. Hễ khi gọi tên bệnh nhân lấy thuốc, cứ đến lượt “Lê Hoàng Biển Cả” là các cô y tá bụm miệng cười, nhìn anh vừa tinh nghịch vừa thân ái. Chị Hoài là người chữa trị và theo dõi bệnh tình của anh, cũng có hỏi anh về cái tên lạ mà hay này, anh trả lời qua loa cho xong chuyện, dù có đôi lần lỡ miệng, xuýt bị lộ thân phận. Khi biết anh là giáo viên dạy Tiếng Anh, chị Hoài nhờ anh giúp mỗi ngày các bài vở chị học từ một Trung Tâm Ngoại Ngữ vì gia đình có chị ruột bên Mỹ đang làm giấy tờ bảo lãnh diện ODP.
Tôi trêu anh:
- Nhìn vào cặp mắt chị Hoài khi nói chuyện, em dám chắc là anh đã lọt vào “mắt xanh” của chị ấy rồi đấy, anh tính sao ?
- Anh biết chớ, nhưng anh chẳng còn tâm trí nào cho chuyện tình cảm yêu đương. Hiện giờ anh chỉ còn một con đường, là phải vượt biên bằng mọi giá, thế thôi.
Sau đó, anh được xuất viện, vừa trở về nhà vài ngày thì may mắn có chuyến vượt biên do bạn thân giới thiệu nên anh lên đường ra khơi. Một chiều tôi đi học về, bà chị họ chạy qua:
- Hồi nãy có cô Hoài y tá đến tìm anh... Biển Cả.
Tôi đã từng kể cho cả nhà nghe chuyện gặp chị Hoài lúc đi dạo với anh Hai, nên chị chép miệng:
- Tội cô ấy quá, nhưng nhà mình còn đang nóng ruột chờ tin nên chị đâu dám nói sự thật, đành nói dối “anh Biển Cả” đi Cần Thơ.
Ba tuần sau, cả nhà sung sướng khi nhận điện tín của anh Hai từ đảo Bidong, Malaysia. Trong nỗi vui mừng này, tôi nghĩ đến chị Hoài, đắn đo có nên báo cho chị biết tin anh Hai. Nhưng tôi lại thôi, nào có ích gì, chỉ làm cho chị buồn thêm.
Rồi trời xui đất khiến buổi sáng chúa nhật tôi đi chợ Xóm Mới, đang đi vào tiệm bánh gai đầu chợ thì gặp chị Hoài cũng đang mua bánh gai. Hai chị em mừng rỡ ríu rít, chị kéo tôi vào quán nước để nói chuyện nhiều hơn. Tôi báo tin vui mà không dám... hớn hở:
- Chị ơi, anh Hai của em đã đến đảo Bidong rồi đó.
Chị thoáng thất vọng, buồn buồn, nhưng kịp mỉm cười:
- Ôi, chị mừng cho anh Hai, chung vui cùng gia đình em.
Nói chuyện qua lại một lúc, trước khi chia tay, chị Hoài ngập ngừng:
- Em nè, chị hỏi điều này nếu em không thấy phiền, em cho chị địa chỉ anh Hai bên đảo được không? Thú thiệt với em, gia đình chị chờ đi ODP lâu quá, nên chị và đứa em trai đang tìm mối vượt biên. Chủ tàu nói chuyến đi dự tính đã đầy người, nhưng nếu phút chót có ai rút lui thì sẽ kêu chị. Nếu chị may mắn tới đảo Bidong sẽ tìm anh Hai của em, còn nếu chị tới đảo khác nước khác, chị cũng sẽ viết thư liên lạc với ảnh, được không em?
- Trời ơi, có gì mà phiền chớ. Ngày mai đi học em sẽ ghé qua bệnh viện đưa chị địa chỉ. Mà chị ơi, vậy thì em phải khai thiệt với chị một chuyện ...
- Chuyện gì, em cứ nói.
- Dạ, anh Hai của em hổng phải tên Biển Cả.
- Chị biết mà! Nãy giờ em có thấy chị gọi ảnh là “Biển Cả” không?
- Ủa, ủa, là sao??
- Hôm nọ chị đến nhà tìm ảnh, dù đã có địa chỉ lấy từ sổ sức khỏe, nhưng khi đến đầu hẻm thấy một bác ngồi bán khoai mì đang ... rảnh rang, chị bèn hỏi nhà anh Biển Cả, bác ấy cười lớn, anh gì mà anh, căn nhà cổng màu xanh đó, thằng Biển Cả đang chơi bắn bi với mấy thằng nhóc trong xóm kìa, cô là cô giáo của nó hả!
- Ha...ha...Vậy là chị biết từ ngày đó?
- Thực ra, chị biết từ những ngày ảnh còn ở bệnh viện.
- Ủa, ủa, là sao nữa?
- Chị là người tiếp nhận ảnh lúc đến khám bệnh, thấy cái tên hay, các cô y tá xúm vào hỏi han, ảnh ngượng ngùng bối rối, đúng kiểu chưa quen nói dối. Sau đó chị nhìn kỹ sổ sức khỏe, thì thấy chỗ ghi tuổi, cái số 29 không đều nhau, nét mực cũng hơi khác. Rồi khi chị hỏi ảnh thẻ “chứng minh nhân dân” để làm thủ tục nhập viện, ảnh nói bị mất. Cũng may chị là Y tá trưởng nên bỏ qua thủ tục này.
- Ôi, chị vừa thông minh lại vừa tốt bụng. Sao chị dám giúp ảnh, lỡ ảnh là... tội phạm nguy hiểm thì sao?
- Nghe chị nói nè, trước tiên, chị hành động theo lương tâm “lương y như từ mẫu”, làm sao chị có thể đuổi bệnh nhân ra về khi họ đang run vì cơn sốt? Lý do tiếp theo, dáng vẻ bên ngoài của anh ấy với cặp mắt kiếng, phong thái mô phạm, giọng nói từ tốn điềm đạm, cũng đủ gây tin tưởng cho người đối diện. Hơn nữa, khi tiếp xúc, thì càng thấy anh ấy là người đứng đắn, đạo đức, nhất là sự hiểu biết của ảnh, không chỉ trong môn English mà trong các vấn đề khác. Chị đã cảm mến ảnh từ những ngày đó.
- Chị nói thì em mới dám... khoe luôn, ảnh là cuốn tự điển bách khoa của gia đình và cả xóm em luôn á! Em xin thay mặt anh Hai, cám ơn chị đã bao che và chữa bệnh cho anh ấy.
- Chị cũng cám ơn ảnh, thời gian hai tuần lễ chị đã mở mang thêm một số kiến thức là nhờ ảnh.
Tôi về nhà, viết liền lá thư cho anh Hai, kể lại toàn bộ cuộc nói chuyện với chị Hoài, và dặn ảnh chuẩn bị tinh thần, biết đâu con tàu của chị ấy sẽ cập bến Malaysia. Anh viết lại, biểu tôi yên tâm, vì ảnh đang làm thiện nguyện, dạy English ở đảo, nên quen thân với Ban Điều Hành trại, hễ có chuyến đưa người mới vào đảo là anh được xem danh sách từ chiều hôm trước, rồi đến ngày, anh vẫn hòa vào đám đông kéo nhau ra cầu Jetty đón đoàn người tỵ nạn mới, để tìm người quen, bạn bè, hàng xóm.
Vậy mà bốn tháng sau, khi anh có tên đi định cư Mỹ, buổi tối trước khi rời đảo Bidong để qua trại Sungai Besi, anh viết thư về nhà, có viết riêng cho tôi một đoạn:
- Em ơi, sao chị Hoài vẫn chưa đến Bidong, mà cũng chưa viết thư cho anh từ trại khác, liệu có chuyện gì xảy ra với chị ấy chăng? Em hãy đến bệnh viện tìm xem chị ấy còn ở đó không nhé.
Tôi chạy liền đến bệnh viện, vào thẳng phòng trực y tá, với tư cách người nhà bệnh nhân, xin gặp chị Hoài để nói lời cảm tạ. Một chị y tá cho biết:
- Chị Hoài nghỉ làm rồi em ơi.
- Từ khi nào hở chị?
- Cỡ bốn, năm tháng.
Trời ơi, đúng là lúc chị nói với tôi dự tính vượt biên. Tôi hồi hộp:
- Vậy chị cho em địa chỉ nhà chị Hoài để em ghé thăm.
- Khỏi ghé em ơi, chị Hoài vượt biên đến Thailand rồi.
Tôi run run:
- Thiệt không chị? Chị ấy đến Thái hay Bidong, Mã Lai?
- Đến Thái! Chị ấy có gửi thư và hình cho tụi chị, nếu em muốn xem thì ngày mai quay lại chị cho xem.
Tôi thở phào, trở về nhà, nhưng cả đêm thao thức với những nghĩ suy, tại sao chị ấy không viết thư cho anh Hai như đã nói với tôi? Tôi bèn đưa ra hai giả thuyết, thứ nhất, có thể trên đường vượt biển chị đã đánh mất hành lý và địa chỉ của anh Hai (giả thuyết này có nhiều khả năng xảy ra, vì hai người anh của tôi đi vượt biên đều gặp tình trạng này, kẻ thì làm rơi trên biển, người thì đánh mất lúc di chuyển từ ghe nhỏ qua tàu lớn). Giả thuyết thứ hai, có thể nào chị đã gặp gỡ một tình yêu chung chuyến tàu hoặc chung trại tỵ nạn, nên không còn ý muốn liên lạc với anh Hai?
Rồi tôi cũng đi vào giấc ngủ với niềm vui, là chị Hoài đã thoát được nơi chốn này, đến được bến bờ tự do như mong ước. Còn chuyện sau đó, dù là giả thuyết một, giả thuyết hai, hay giả thuyết ba, bốn, năm, sáu ...gì chăng nữa, với tôi, cũng đều là một kết thúc vừa ý.
Anh Hai, sẽ nhớ những ngày được cô y tá dễ thương cứu giúp trong hoàn cảnh “hoạn nạn khốn khó”. Chị Hoài, sẽ không quên cảm xúc xao động nhẹ nhàng khi chữa trị cho một bệnh nhân có cái tên giả “đặc biệt”.
Anh Hai, chị Hoài, và tôi, người chứng kiến và kể lại câu chuyện này, cùng có một kỷ niệm đẹp mỗi khi nhớ về quãng thời gian sống dưới chế độ “Xã Hội Chủ Nghĩa- Xuống Hố Cả Nút”, khi mà “cây cột đèn có chân cũng muốn ra đi”!
Tác giả ở trại tỵ nạn Bataan (Philippines)năm 1989
Ngày 30 tháng Tư 1975, Saigon sụp đổ. Những gia đình đang ở trong các cư xá sĩ quan, cư xá công chức bị đuổi ra khỏi nhà. Cùng chung số phận, gia đình chúng tôi bị đuổi khỏi mái nhà thân yêu trong cư xá, nơi chúng tôi có một thời nhỏ dại êm ả. Mẹ đưa chúng tôi về căn nhà riêng Ba Mẹ đã xây nên bằng công sức của Ba Mẹ, nhưng nhà này cũng bị tịch thu. Sau hai lần mất nhà, chúng tôi lớn lên như câu ca dao “Còn cha gót đỏ như son, mất cha lăn lóc như lon sữa bò.” Ba chúng tôi còn sống, nhưng đang bị đầy ải trong trại cải tạo ở núi rừng âm u đầy chướng khí của miền Bắc. Những ngày u ám đó in hằn vào đầu óc của chúng tôi, khiến chúng tôi trưởng thành sớm hơn tuổi của mình, vì chỉ được xã hội cho nếm mùi cay đắng.
Đầu thập niên tám mươi, trước những bế tắc không lối thoát, Mẹ thu xếp gởi anh chị em chúng tôi, từng đứa, vượt đại dương để đến một vùng đất tự do, ở đó không có khủng bố tinh thần, ở đó không có trại cải tạo giam giữ những người hoàn toàn lương thiện, và ở đó chúng tôi sẽ được học hành thành người. Cũng như rất nhiều người vợ lính khác, Mẹ đảm đang, xuôi ngược nuôi chúng tôi, nuôi Ba trong các trại tù cải tạo từ Bắc vào Nam. Tất cả những điều đó đẩy chúng tôi đến đường cùng, không còn lựa chọn nào khác hơn là phải đưa chính mạng sống của mình đánh cuộc với định mệnh, với đại dương. Còn nhớ thời đó, người dân miền Nam Việt Nam vẫn truyền miệng một câu ngạn ngữ của thời đại “Một là con nuôi mẹ, hai là mẹ nuôi con, ba là con nuôi cá.” Cứ thế một hai ba Mẹ lo cho con một mình vượt biển. Khả năng vượt thoát chỉ là một phần ba. Ròng rã gần mười lăm năm dài, từ cuối năm 1975 đến đầu năm 1990, hàng trăm ngàn thuyền nhân (hay theo như cách gọi của UNHCR–United Nations High Commissions for Refugees, Cao Uỷ Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc là “Boat People”) đã đến được bờ bến tự do. Cùng lúc, hàng trăm ngàn thuyền nhân khác gởi thân vào lòng đại dương.
Chưa qua khỏi tuổi thơ, nước mất, nhà tan, chúng tôi, không có thời mới lớn, tự động bước vào tuổi trưởng thành trước những khó khăn của Mẹ, vượt quá nỗi khổ của bà Tú Xương ở thế kỷ mười chín, vừa nuôi chồng trong tù cải tạo, vừa nuôi một bầy con dại còn ở Tiểu học hoặc ở những năm đầu Trung học. Từng đứa một, khi có điều kiện, Mẹ gởi chúng tôi ra đi.
Đến phiên tôi, Mẹ chỉ đưa được tôi ra bến xe liên tỉnh để đi Vũng Tàu. Cả hai mẹ con đều đội nón lá rộng vành để che những giọt nước mắt lã chã rơi không ngừng. Mẹ khóc nhiều hơn những lần đưa các anh em trai của tôi ra đi, vì tôi là con gái duy nhất trong nhà, thân gái dậm trường. Ngồi trên xe đò từ Saigon về Vũng Tàu, trong một góc xe đò, tôi úp nón lên mặt, để che đôi mắt sưng đỏ vì khóc của mình.
Gần một tuần lênh đênh trên đại dương, chỉ có trời và nước, xanh thẫm ban ngày, đen kịt ban đêm, không có cả một cánh chim, tôi nhớ Ba, nhớ Mẹ quay quắt, nhưng vẫn hài lòng với chọn lựa của mình. Hai ngày đầu, như mọi người trong lòng thuyền, tôi bị say sóng, nôn ra cả mật xanh, mật vàng. Đó là lần đầu tiên trong đời, tôi hiểu thế nào là “mửa mật”. Vậy mà chỉ hai ngày sau, quen dần với cảm giác bập bềnh của con thuyền nhỏ trước lực đẩy của nước ở đại dương, tôi tỉnh táo lại hoàn toàn với đầy đủ sinh lực của “tuổi mười bảy bẻ gãy sừng trâu” mặc dù đã hai ngày không ăn uống. Khi thuyền ra hải phận quốc tế, chúng tôi được lên khoang thuyền hít thở không khí trong lành đầy vị mặn của đại dương, hình như có thoang thoảng mùi vị của tự do.
May mắn hơn những người tỵ nạn khác, chúng tôi đi bình yên, không gặp một thuyền nào khác. Trời êm biển lặng vào tháng sáu đầu mùa hè đưa chúng tôi đến thẳng đất liền của Mã Lai sau năm ngày sáu đêm lênh đênh trên biến.
Lên tới đất liền, cùng với chú lái tàu, tôi phải vận dụng vốn liếng tiếng Anh hạn chế đã tích lũy trong những tháng năm chuẩn bị vượt biên để giải thích cho nhân viên Cảnh sát Mã Lai biết chúng tôi là ai, tại sao chúng tôi đặt chân đến đây. Đó chỉ là lần đầu, một khởi đầu kéo dài mãi cho đến bây giờ, phải giải thích tương tự cho rất nhiều người khác nhau thuộc nhiều chủng tộc hiểu tại sao chúng tôi phải bỏ quê hương ra đi để sống đời lưu vong.
Những giờ phút đầu tiên trên đất liền, chúng tôi lại bị “say đất”. Quen với trạng thái bồng bềnh, trôi nổi trên mặt nước; khi trở lại mặt đất bằng phẳng, mỗi lần đặt bước chân xuống, tôi có cảm giác mặt đất chao đảo như còn trên mặt sóng nhấp nhô. Sau hai ngày bận rộn với đủ thứ giấy tờ khai báo với cảnh sát địa phương Mã Lai, chúng tôi được đưa ra trại Pulau Bidong, trại tỵ nạn chính thức của Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp quốc đặt trên lãnh thổ Malaysia để thành một người tỵ nạn chính thức có số căn cước thuyền nhân, chờ được phỏng vấn định cư ở một nước thứ ba. Lần này, hành trình từ đất liền ra đảo Pulau Bidong vững chắc hơn trên một thuyền khá lớn của UNHCR, có tên là “Blue Dart”, khoảng cách lại ngắn, nên chúng tôi không bị say sóng.
Trại tỵ nạn Pulau Bidong đã dược xây dựng tương đối đầy đủ khi chúng tôi đến đảo vào giữa thập niên 80, có đủ trường Tiểu học, Trung học cho trẻ em, trường huấn nghệ (Vocational School) cho người lớn, có thư viện, có cả Chùa, Nhà thờ trên “đồi tôn giáo”, có Bệnh viện với cái tên khá ngộ nghĩnh và dễ nhớ là “Sick Bay”. Chúng tôi được đón tiếp với những thùng mì ăn liền vĩ đại hãy còn bốc khói, giống hệt như những thùng mì Liên Hiệp Quốc phân phàt cho nạn nhân của thiên tai Tsunami ở South Asia cuối năm 2004.
Lần đầu tiên ăn đồ cứu trợ, sống bằng lòng nhân đạo của người khác, một thân một mình ở trại tỵ nạn của một đất nước khác, nước mắt tôi lăn dài, nghĩ đến Ba vẫn đang mỏi mòn trong ngục tù cải tạo ở núi rừng âm u đầy chướng khí của miền Bắc vẫn thiếu ăn, thiếu mặc; nghĩ đến Mẹ đang vò võ một mình ở nhà, chắc là vẫn đang cầu nguyện cho bầy con đã tứ tán mỗi đứa một quốc gia, một phương trời khác nhau, ở tuổi chưa đến hai mươi.
Tưởng là mình đã rất can đảm khi dám chấp nhận cảnh “thân gái dặm trường”, không ngờ, ở trại tỵ nạn Pulau Bidong, đến khu vực Cô nhi (Minor Refugees Residential Section), dành cho các em dưới mười sáu tuổi đến trại tỵ nạn một mình, tôi thấy em nhỏ nhất chỉ mới sáu tuổi.
Ở đó, có Hanh, chỉ mới mười một tuổi, thông minh, đầy cương nghị, có Bố đang bị “học tập cải tạo” -như Ba tôi- được Mẹ gởi đi vượt biển một mình trên một thuyền bị hải tặc, mọi người đói lả gần ba ngày trước khi đến được trại tỵ nạn. Ở trại tỵ nạn, cậu bé tuy mới mười một tuổi nhưng có sự khôn ngoan và nét chững chạc cúa một người ngoài hai mươi học hành chăm chỉ, hết học Anh Văn lại quay qua học Toán, quanh quẩn cả ngày ở trường Trung học trên đảo Pulau Bidong.
Ở đó, có Huyên, một em gái mới mười ba tuổi, cả gia đình mất tích trên biển khi thuyền bị lật. Như một phép màu, Huyên bám được một thùng plastic rỗng, trôi nổi bồng bềnh giữa đại dương gần nửa ngày, trước khi được một tàu tỵ nạn khác đi ngang vớt lên. Người ta đã thấy cô bé Việt Nam nhỏ bé mắt nhắm nghiền, gần như hôn mê bất tỉnh. thân xác mỏng manh như chiếc lá khô, hai tay vẫn còn bám chặt cái thùng nhựa rỗng bồng bềnh trên đại dương.
Ở đó, có Việt, rất thâm trầm, dù mới mười lăm tuổi, nhà cửa bị tịch thu, Ba bị giam ở khám Chí Hòa vì “tội nhà giàu”, Mẹ gởi em ra đi với nhà hàng xóm để thoát khỏi tương lai đen tối của giai cấp “tư sản mại bản”.
Còn biết bao các em khác nữa. Mười một tháng sau đó ở Pulau Bidong, với vốn liếng Anh ngữ từ những năm ở trường Trung học, và những sách vở của thư viện trên đảo, tôi đã có cơ hội giúp cho UNHCR và cả các phái đoàn Mỹ, Canada, Úc trong việc thông dịch mỗi khi họ đến phỏng vấn thuyền nhân.
Mãi đến bây giờ, tôi vẫn còn cảm giác xót xa khi nhớ lại những lần thông dịch cho những ngưồi đàn bà, con gái Việt Nam bị làm nhục bởi hải tặc trên đường vượt biển, em nhỏ nhất chỉ mới mười hai tuổi. Hồi đó, Cao ủy trưởng Alan ở Pulau Bidong hỉ định tôi chuyên làm công việc thông dịch đàn bà con gái trong các cuộc phỏng vấn các thuyền vượt biển bị hải tặc. Đó là một công việc rất tế nhị và đầy xót xa. Đến một độ nào đó, nỗi đau vượt quá sức chịu đựngi, người ta mất cảm giác. Nhiều người nữ thuyền nhân, mặt còn đầy nỗi kinh hoàng nhưng kể lại từng chi tiết ô nhục mà chính mình phải gánh chịu với giọng đều đều, thản nhiên, lạnh lùng như nói chuyện trời mưa, trời nắng, trong khi chính tôi và cô May, Cao ủy của UNHCR đã giọt ngắn giọt dài. Mỗi lần dịch hay viết xong một hồ sơ tàu tỵ nạn bị cướp, tay áo tôi ướt đẫm vì nước mắt. Tôi vẫn tự hỏi thủ phạm trực tiếp cho nỗi đau này là hải tặc Thái Lan, thủ phạm gián tiếp thực sự là ai?
Đó là khoảng thời gian rất bận rộn với công việc thông dịch ban ngày giúp cho nhân viên Cao ủy Tỵ nạn. Ban đêm, tôi còn dạy thiện nguyện cho các em, chỉ nhỏ hơn tôi vài tuổi, ở trường Trung học trên trại Tỵ nạn. Trường chỉ dạy hai môn Anh văn và Toán. Sách học là những quyển sách đơn giản tương dương trình độ của bộ “English for Today” quyển I đến quyển III. Trước ngày ra đi, tôi chỉ mới học xong quyển IV ở Việt Nam, nhưng nhờ làm việc, tiếp xúc nhiều với các nhân viên UNHCR, và bằng lòng thương yêu các em chân thành như em ruột của chính mình, tôi mang hết kiến thức và hiểu biết của mình truyền lại cho các em, mặc dù tôi chưa hề được qua một trường lớp nào về Sư phạm. Chúng tôi, những người dạy thiện nguyện ở trường Trung học vẫn đùa với nhau là mình đã theo một “trường phái sư phạm mới”, lối dạy “mèo nhỏ tha chuột lớn”
Có lần, giải nghiã cho các em một từ mới, “dignity” -có nghĩa là phẩm giá- tôi không biết làm thế nào để giảng cho các em hiểu, đành viết lên bằng câu thí dụ “We lost everything, but never lose our dignity”. Viết đến đó, tự dưng nước mắt tôi lăn dài, các em ở tuổi mười bốn, mười lăm lúc đó cũng khóc theo. Những giọt nước mắt đó vẫn còn đọng trong tâm khảm tôi cho đến bây giờ, cùng có niềm tin ở một thế hệ trẻ lưu vong có đầy đủ đầu óc và trái tim. Chắc chắn, các em học sinh lúc đó, trên bước đường tha hương sau này, sẽ nhớ và hiểu nghiã chữ “dignity” hơn ai hết, và các em sẽ sống xứng đáng với lòng kỳ vọng của thân sinh các em, khi Ba Mẹ các em đã phải đứt ruột gởi con ra biển một mình.
Mỗi tuần hai lần, tàu “Blue Dart” của UNHCR cho nước ngọt, mì gói, gạo và thực phẩm tươi gồm gà và rau cải, đôi khi còn có dưa hấu hay thơm vào cho thuyền nhân.
Hầu hết chúng tôi đến trại tỵ nạn chỉ với một bộ quần áo dính trên người. Chúng tôi được phát áo quần từ một kho áo quần “second hand”, tương tự như áo quần cũ bán trong Goods Will ở Mỹ. Áo quần thường rộng thùng thình, quá khổ, nhưng chúng tôi tự sửa lại đúng với kích thước của mình. Cao ủy tỵ nạn Liên Hiệp quốc đã rất là chu toàn trong việc bảo vệ và chăm lo cho những người tỵ nạn chính trị,
Đến lúc được chuyển qua trại chuyển tiếp Bataan ở Philippines để được hướng dẫn về đời sống văn minh của Mỹ trước khi chính thức đến Mỹ như một người tỵ nạn, chúng tôi được huấn luyện chương trình buổi sáng, buổi chiều làm “Teacher Aid” cho các giảng viên người Phi. Ở đó, đời sống đầy đủ hơn, và lạc quan hơn vì chúng tôi biết chắc chắn ngày mình được định cư ở Mỹ. Và cũng ở đó, tôi có thì giờ tự học nhiều hơn cho chính mình, chuẩn bị một thời kỳ gian nan khác, một khởi đầu từ con số không ở quê hương thứ hai. Một vài lần được về chơi ở Manila (thủ đô của Philippines), những chuyến du lịch đặc biệt bằng xe bus dành riêng cho các “Teacher Aid”, chúng tôi vẫn ngậm ngùi thương cho sự lạc hậu của đất nước mình ngay cả khi so sánh với các nước Á châu khác như Philippines.
“Nỗi buồn nhược tiểu” đó càng tăng cao khi trên đường bay qua Mỹ, tôi được dừng chân hai ngày ở Tokyo- Nhật, thủ đô của nước Á châu giàu mạnh nhất sau khi nếm bài học xương máu với hai cột khói trắng hình nấm khổng lồ ở Hiroshima và Nagasaki cuối thế chiến thứ hai. Tokyo văn minh sáng rực ánh đèn ban đêm tương phản với Saigon lạc hậu tranh tối, tranh sáng, Nước mắt tôi lại chảy xuống cho sự thụt lùi của quê hương đã bị bỏ lại sau lưng.
Tôi đến Mỹ một tuần trước lễ Giáng sinh, cùng một thuyền nhân Việt Nam khác, hoàn thành nhiệm vụ cuối cùng được giao từ UNHCR, giúp đoàn người tỵ nạn gồm 85 người kể cả một vài người Lào và Cambodia cũng trốn chạy khỏi quê hương như chúng tôi. Giữa những hành khách Mỹ tự tin, cao to, với nhiều hành lý cồng kềnh về nước đoàn tụ với gia đình nhân dịp Giáng sinh và Tết dương lịch, rất dễ nhận ra những người tỵ nạn nhỏ bé, mảnh mai mắt mở to vui mừng lẫn ngơ ngác, chỉ có hai bàn tay trắng với những túi xách của UNHCR và IOM (International Organization for Migration) chỉ có giấy tờ nhập cư vào Mỹ và giấy tờ tùy thân.
Được chuẩn bị đầy đủ với gần 6 tháng học về “American Culture Orientation” ở trại chuyển tiếp Bataan, Philippines, với trình độ Anh văn tương đối sau một năm tiếp xúc và làm thông dịch viên cho nhân viên Cao ủy Tỵ nạn LHQ, tôi không đến nỗi bị lâm vào cảnh “mán về thành”, nhưng thật sự đời sống ở Mỹ khác xa với đời sống ở quê nhà như mặt trời với mặt trăng, như ngày với đêm.
Hình ảnh của Ba với mái tóc bạc trắng ở tuổi năm mươi trong lao tù cải tạo, hình ảnh Mẹ với đôi mắt buồn trong những ngày chuẩn bị gởi chúng tôi ra đi là nguồn nghị lực không bao giờ cạn, tiếp sức cho chúng tôi trong thời gian chân ướt chân ráo ở quê hương thứ hai.
Từ nhiều trại tỵ nạn ở nhiều nước khác nhau: Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippines, anh chị em chúng tôi đến Mỹ trong nhiều thời gian khác nhau, được trùng phùng, như trăm sông đổ về biển, và mang sức sống của tuổi hai mươi lao vào đất nước của tự do và cơ hội.
Một người bạn cũ của Ba, qua Mỹ từ năm 1975, đang làm ở tổ chức thiện nguyện USCC, giúp tôi có được trợ cấp một lần là 650 dollars dành cho người tỵ nạn mới đến, bác viết cho tôi một reference letter và từ đó “I m on my own way”. Bác cũng giới thiệu cho tôi đến tìm việc làm ở một vài nơi. Trời thương, “thánh nhân đãi kẻ khù khờ”, tôi được nhận vào làm full time ở một công ty lớn chỉ hai tuần sau ngày đến Mỹ. Lúc đó là đầu tháng giêng, giữa mùa Đông ở Mỹ, trời lạnh buốt, buổi sáng tôi thức dậy từ sáu giờ ba mươi, trời còn tối, ra đứng chỗ xe bus ở đầu đường, trời lạnh cóng, dưới 40 độ Fahrenheit, tôi phải mặc ba bốn lớp áo, nhưng áo quần cũ chị em chúng tôi đã mua từ Goods Will để vừa với túi tiền của mấy chị em lưu lạc quê người, chỉ có hai bàn tay trắng, với lòng tin của Ba Mẹ đặt ở mỗi chúng tôi. Một tuần sau, chịu không nổi cái lạnh gần đông đá, từ 32 đến 39 độ Fahrenheit của mùa đông thứ nhất ở Mỹ, tôi dùng cái paycheck đầu tiên của mình thuê người dạy lái xe và dốc hết tiền trợ cấp một lần cho người mới đến mua một cái Toyota Celica đã mười bốn tuổi, để đi học và đi làm.
Đời sống lúc đó, còn nhỏ, là một hình tam giác với ba đỉnh là nhà, trường học và sở làm không hề có giải trí, không có cả thời gian để buồn và nhớ nhà.
Đến Mỹ muộn màng, sau gần mười năm miền Nam sụp đổ, biết thân phận mình là “trâu chậm”, chúng tôi lao đầu vào học, không dám để phí thêm một giờ phút nào. Mùa hè, học phí cao hơn, tôi chỉ ghi danh theo học một lớp, và làm part time cho một trạm bán xăng ở gần nhà. Nghĩa là lúc đó, tôi đi làm full time, đi học full time quanh năm. Nhiều lúc quá mệt mỏi, tôi lại tự nâng đỡ tinh thần mình bằng câu nói cửa miệng của người Mỹ “No pain, no gain”, và nhớ đến kỳ vọng của Ba Mẹ đã đặt ra cho chúng tôi. Buồn nhất là những lần bất chợt nghe được những câu hát rất đúng với tâm trạng của mình “Ai trở về xứ Việt nhắn giùm tôi người ấy ở trong tù …..”, nghĩ đến Ba, nước mắt tôi vẫn lăn dài, và tự bảo lòng mình phải cố gắng học giỏi hơn để Ba Mẹ vui hơn, đủ nghị lực sống trong đời sống bị khủng bố tinh thần thường xuyên ở quê nhà.
Có lần được phát biểu cảm tưởng với thời gian ba phút trong một lần nhận học bổng, tưởng là sẽ cảm ơn đủ tất cả mọi người và hứa với “scholarship foundation” sẽ cố gắng nhiều hơn, nhưng tôi chỉ nói được gần hai phút:
– Xin cảm ơn tất cả thầy cô đã có công dạy dỗ tôi, xin cảm ơn Hội đồng trao tặng học bổng cho tôi. Xin tri ân đất nước Hoa Kỳ đã cưu mang và cung cấp một đời sống tự do, no đủ cho tất cả những người tỵ nan, lưu vong. Vinh dự hôm nay xin được dành riêng cho tất cả những người đã nằm xuống cho chúng tôi có được ngày hôm nay, và xin đặc biệt danh riêng cho Ba tôi, người vẫn con đang bị đày ải trong lao tù Cộng sản vì đã ở trong một quân đội bảo vệ tự do, xin được dành riêng cho Mẹ tôi, người đã rất chu toàn trong việc nuôi dậy con cái một mình.
Một phút còn lại, tôi không nói được vì cử tọa trước mặt đã mờ đi sau màn nước mắt, mùi vị đắng cay sau năm 75 ở quê nhà vẫn kéo về với đầy nỗi xót xa, ngay cả trong giờ phút ngọt ngào nhất. Một thầy giáo người Mỹ gốc Ba Lan đã tỵ nạn Cộng sản từ cuối thập niên 60, dạy tôi từ năm đầu Đại học, hiểu rất rõ tâm trạng của một người tỵ nạn, đã lên diễn đàn giúp tôi hoàn tất lời phát biểu. Lần đó, tôi được đặc cách đề cử trực tiếp cho học bổng niên khoá kế tiếp, mà không phải qua những thủ tục bình thường. Món tiền tuy không lớn, cũng đủ để trang trải chi phí sách vở, học phí, ăn ở cho một năm học, là một yểm trợ vật chất lớn lao cho tôi trong ba năm đầu chân ướt chân ráo ở quê người.
Có những điều hằn sâu trong ký ức, lúc nào cũng tưởng như mới vừa xẩy ra, như chuyện say sóng đến độ “mửa mật” của những ngày lênh đênh trên đại dương vẫn ám ảnh tôi không nguôi. Cho nên, có lần được chọn là “Employee of the year” được tặng vé cho một chuyến đi cruise trên biển một tuần cho hai người, nhớ lại cảm giác đắng nghét ở miệng, cảm giác mất thăng bằng của những ngày mới đặt chân lên đất liền, tôi đã nhường lại phần thưởng đó cho “the runner up” trước con mắt ngạc nhiên của mọi người làm cùng chỗ.
Đó không phải là điều duy nhất người bản xứ không hiểu những người tỵ nạn, những người Mỹ gốc Việt lưu vong. Họ cũng không hiểu tại sao rất nhiều người Việt Nam nhỏ bé ốm yếu vẫn đội mưa đội gió hàng giờ giương cao những tấm biểu ngữ “Human Right for VietNam”, “Freedom for VietNam” ở một góc đường nào đó trong đời sống lạnh lùng, đầy tất bật của đất nước Hoa kỳ.
Sau khi đã ổn định, -đã có một “career” đàng hoàng thay cho cái “job” để kiếm sống – có thời tôi đi dạy thiện nguyện cho một trường Việt ngữ ở điạ phương, học sinh là các em teenagers. Dù cùng tuổi nhưng học trò của tôi bây giờ vô tư, ngây thơ, khác xa các em trong trại tỵ nạn chững chạc, trưởng thành trước tuổi.
Ở trường Việt ngữ, ngoài bài giảng từ sách của trường, thì giờ còn dư, chúng tôi giảng trích đoạn từ tác phẩm “Mùa hè đỏ lửa” của nhà văn Phan Nhật Nam, từ bài thơ bất khuất “Nếu ai hỏi” của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện để các em hiểu rõ hơn giá trị của tự do, và biết yêu thương cha mẹ hơn, biết ơn cha mẹ các em đã hy sinh rất nhiều để các em có được ngày hôm nay.
Đời sống ở Mỹ vốn tất bật, nhưng một phút bình lặng nào đó của tâm hồn, dù đang bị kẹt xe trên một xa lộ xe cộ tất tả ngược xuôi hay đang ở trong một cuộc họp ở sở, đầu óc tôi vẫn lang thang về với quê nhà, và buồn thay, bao giờ cũng vậy, mùi vị đắng nghét như đang bị “mửa mật”, mùi vị chua cay của một thời vẫn hiện về, rõ ràng, mồn một như chuyện hôm qua.
Và có một lần “chuyện hôm qua” càng rõ nét hơn. Đến thăm Massachusetts Institute of Technology (MIT) nổi tiếng về chuyên ngành Toán và Kỹ thuật, đang ngồi chờ người bạn ở cafeteria của trường, bỗng một sinh viên người Á châu đi qua, đi lại trước mặt tôi nhiều lần. Sau cùng, anh ta dừng lại, lịch sự hỏi bằng tiếng Mỹ:
– Xin lỗi, chị có phải là cô Thuyên ở trường Trung học Pulau Bidong năm 1988 không?
Tôi trả lời bằng tiếng Việt:
– Đúng rồi, em có thể nhắc cho tôi nhớ em là ai không?
Người thanh niên vui mừng, rồi bằng một thứ tiếng Việt rõ ràng và lễ độ, anh ta trả lời:
– Em là Hanh đây chị, em học cùng lớp với Huyên và Việt ở Pulau Bidong. Chị nhớ em không?
Hanh vẫn nhận ra tôi sau mười lăm năm không gặp, nhưng tôi thì không thể nhìn ra được anh thanh niên cao lớn chững chạc trước mặt mình là cậu bé đen nhẻm, chững chạc, chăm học ở trại tỵ nạn năm xưa
Hanh lúc đó đang ở năm cuối của chương trình Tiến sĩ Toán, như ước mong ngày nào em đã trình bày trong một giờ thực tập nói tiếng Anh ở lớp học nhỏ xíu, mái lợp tôn thô sơ giữa đảo Pulau Bidong. Hanh kể cho tôi nghe về chuyện em đến Mỹ một mình ở tuổi mười hai, cùng với một nhóm ngườI Việt Nam tỵ nạn đặt chân đến Mỹ ở phi trường San Francíco, Hanh đổi máy bay về Massachusetts. Đi một mình, dưới mười lăm tuổi, nên Hanh được một cô Stewardess đích thân dắt lên máy bay trước.
Ra đón cậu bé tỵ nạn Việt Nam ở phi trường Logan Boston- là đại diện của một tổ chức thiện nguyện và cha mẹ nuôi của Hanh. Đó là một gia đình ngươi Mỹ gốc Tiệp Khắc, qua Mỹ tỵ nạn từ thập niên 60s. Dù chưa bao giờ có ý định xin con nuôi, nhưng thấy Hanh là một cậu bé mới mười một tuổi vượt biển một mình, không có thân nhân, nên họ muốn đưa Hanh vê nuôi. Cả hai ông bà đều dạy Trung học. Ông dạy Toán, bà dạy Home Economics (tương tự như môn Nữ công gia chánh ở Việt Nam). Người con duy nhất đi học xa, ông bà vẫn làm việc thiện nguyện ở một Nhà thờ Tin lành vào cuối tuần. Khi thấy tên Hanh, một em nhỏ tỵ nạn Việt Nam mới mười một tuổi, không có thân nhân ở Mỹ, được nhà thờ tìm người bảo trợ, họ xin nhận Hanh làm con nuôi. Vẻ chín chắn cùng sự khôn ngoan trước tuổi của Hanh đã chinh phục được lòng thương yêu của bố mẹ nuôi người Mỹ từ lúc đầu. Vì cả hai ông bà đều là nhà giáo, Hanh lại có căn bản về cả tiếng Anh lẫn học lực, lại chăm chỉ học hành nên em được vào thẳng lớp bảy như các học sinh bản xứ mà không gặp trở ngại nào.
Lên Trung học, Hanh tốt nghiệp thủ khoa Trung học. Với sự hướng dẫn quý báu của cha mẹ nuôi, với thành tích học tập xuất sắc trong bốn năm Trung học, cậu bé Hanh tỵ nạn nâm xưa nhận được học bỗng toàn phần của MIT, trong niềm hãnh diện của cha mẹ nuôi ở Mỹ lẫn cha mẹ ruột ở Việt Nam.
Giữa thập niên 90s của thế kỷ hai mươi, ba mẹ sinh thành cùng hai em của Hanh được qua Mỹ theo chương trình nhân đạo HO. Vậy là Hanh có đến hai ông bố, hai bà mẹ, và hai gia đình cùng ở tiểu bang Massachusetts, trong hai thành phố kế cận nhau
Không muốn làm mất lòng gia đình nào, và để được tập trung học tập, Hanh vào nội trú trong MIT. Mỗi thứ bảy về với cha mẹ ruột, ăn món ăn Việt Nam do mẹ nấu, nghe ba kể về những đọa đày ông phải gánh chịu trong các trại “cải tạo”. Và mỗi chủ nhật, về lại căn phòng thân thuộc mà cha mẹ nuôi đã dành cho Hanh từ ngày cậu bé Việt Nam, da còn đậm màu nắng gió của trại tỵ nạn, chân ướt, chân ráo đến Mỹ. Căn phòng dù không còn được dùng hường xuyên, nhưng trong closet vẫn còn treo hai bộ áo quần kỷ niệm của Hanh, một bộ Hanh mặc khi mới đến Mỹ được người bảo trợ ra đón, và bộ kia là bộ áo quần đầu tiên Hanh được bố mẹ nuôi mua cho. Ở một góc bàn học, vẫn còn cái lọ thủy tinh có cắm hai lá cờ nhỏ, một sọc trắng đỏ với năm mươi ngôi sao của Mỹ, một màu vàng với ba sọc đỏ của Việt Nam. Trên tường vẫn còn hình Hanh năm mười tám tuổi, chững chạc trong áo mũ và dây choàng thủ khoa (valedictorian) ngày tốt nghiệp Trung học.
Một chi tiết rất cảm động trong câu chuyện của cậu bé tỵ nạn ở Pulau Bidong năm xưa là hồi mới đến Mỹ mỗi lần được cho kẹo chocolate, Hanh chỉ ăn một phần nhỏ và để dành hầu hết kẹo để gởi về Việt Nam cho hai em và cho các bạn. Điều “bí mật” đó bị phát hiện khi hai ông bà Mỹ thấy cậu con nuôi ăn uống rất chừng mực từ tốn nhưng luôn luôn xin được mua thêm chocolate. Kẹo “để dành” thường được Hanh gói cẩn thận trong những túi nylon dán kín để trong một góc tủ áo quần. Halloween đầu tiên ở Mỹ, đi học về, làm xong bài vở, trời vừa sụp tối, Hanh xin phép ba mẹ nuôi cho đi xin kẹo. Cậu bé miệt mài đi bộ một mình trong thời tiết se lạnh đầu mùa thu ở miền Đông Bắc trên bốn năm con đường, gõ cửa từng nhà xin kẹo. Kết quả rất khả quan, sáng hôm sau Hanh gởi được một thủng kẹo mười hai lbs (khoảng 5kg) về Việt Nam mà cước phí còn cao hơn cả tiền mua kẹo. Có nguồn gốc là người Tiệp Khắc, một thời đã phải sống dưới chế độ Cộng sản, bố mẹ nuôi của Hanh hiểu ngay mọi chuyện. Và ông bà càng quý Hanh, cậu bé Việt Nam tuổi còn nhỏ nhưng tấm lòng đã rất lớn.
Đến phiên tôi, tôi cũng kể cho Hanh nghe giòng đời đã đẩy đưa tôi từ trại tỵ nạn năm xưa đến California như thế nảo. Có nằm mơ, tôi cũng không tưởng tượng nổi mình gặp lại được cậu học trò đen nhẻm vì vị mặn của gió biển ở Mã Lai, có đôi mắt sáng nhưng lúc nào cũng buồn ở trường Trung học trên đảo Bidong ngày nào.
Ước gì tôi cũng gặp được Huyên và Việt, cũng như đã hội ngộ rất bất ngờ với Hanh ở một góc trường MIT ở miền Đông Bắc nước Mỹ. Nhưng dù chưa hay không có dịp tái ngộ với Huyên và Việt, tôi vẫn tin hai em đã rất thành công như Hanh, chứng minh mình có thể làm được nhiều điều, chẳng hạn như chuyện học hành, mà có một thời ở trong nước, sau tháng 4/75, chình quyền không cho phép mình làm.
Tất cả chúng tôi dều giống nhau ở chỗ phải xa nhà, bỏ đất nước ra đi một mình, dù lúc nào trong tâm tưởng của chúng tôi cũng có một vị trí trang trọng cho quê hương chôn nhau cắt rốn đã phải bỏ lại sau lưng. Chúng tôi đã phải mang cả sinh mạng của mình ra đánh cuộc với định mệnh, với đại dương; một cái giá không một khoán tiền nào, dù lớn đến đâu có thể mua được. Những được mất với cuộc đời hãy còn ở trước mặt, nhưng chắc chắn chúng tôi sẽ cố gắng không ngừng để xứng đáng với cái giá mình phải đánh đổi.
Da vàng. Tranh Đinh Trường Chinh.
Chia tay Hanh hôm đó, tôi mang theo câu nói của Hanh với khuôn mặt rất nghiêm trang, già trước tuổi, và vẫn với đôi mắt buồn xa vắng như lần đầu tiên tôi gặp em ở trường Trung học trên đảo tỵ nạn:
– Điều em vui nhất là đã đền đáp được phần nào ơn nghĩa sinh thành của cha mẹ ruột và ân tình cưu mang của bố mẹ nuôi. Em vẫn cố gắng hết mình, cố gắng đến hết cuộc đời để luôn làm cho cả Ba Mẹ lẫn Mommy, Daddy của em vui. Điều duy nhất không chắc em có làm được hay không, là “gánh sơn hà” mà đôi lúc Ba em và các bác, các chú cùng thời vẫn nửa đùa nửa thật là đã trao lại cho thế hệ của mình
Hanh dừng một chút rồi hỏi một câu mà đến bây giờ tôi vẫn chưa biết cách trả lời:
– Gánh sơn hà nặng lắm một mình em hay cả hai chị em mình không thể nào gánh nổi! Chị ơi, làm thế nào để cả thế hệ của mình đủ sức gánh nổi sơn hà hả chị?
Câu hỏi đó cứ quanh quẩn trong tôi và chắc là phải còn lâu, lâu lắm, tôi mới biết được câu trả lời chính xác. Nhưng tôi tin là chỉ cần một phần mười của một thế hệ Việt Nam (cả ở hải ngọai lẫn trong nước) biết đoàn kết, có nhiệt tâm gánh vác non sông với chí khí của Trần Quốc Toản, với lòng yêu nước của Nguyễn Thái Hoc, và với đầu óc của Lê Quý Đôn thì gánh sơn hà sẽ nhẹ nhàng như cái cặp đi học rất thân thuộc của một thời đèn sách.
Ai đó từng nói: “Cuối cùng, cái mà chúng ta nhớ nhất, không phải là con người, mà là kỷ niệm”. Thế nên, có lẽ điều đáng sợ nhất mà con người phải đối diện, đó là dần dần mất đi trí nhớ. Mất trí nhớ, là mất kỷ niệm, là ký ức bị tan dần theo ngày tháng. Mà xót xa hơn nữa, là với người ở lại, nhớ về một người, vốn đã mất ký ức và đã đi xa, rất xa. (2)
Ông là một nhà thơ, một nhà văn, một nhạc sĩ, người đã mang đến cho thế hệ thính giả Sài Gòn gần 50 năm trước một cách nghe nhạc hoàn toàn mới lạ trên đài phát thanh với chương trình Nhạc Chủ Ðề. Ông là Nguyễn Đình Toàn, người mà cố thi sĩ Du Tử Lê từng gọi là “Người tình không chân dung” của thính giả âm nhạc.
Ông đẹp trai, tài hoa, đa tình. Những ngày tháng đó, cứ mỗi tối Thứ Năm, trên Đài Phát thanh Sài Gòn, tiếng nói của Nguyễn Đình Toàn lại vang lên, ru người nghe vào những ca khúc trữ tình bằng lời nói ngọt ngào, tình tứ về những cuộc tình được ươm mầm, sinh ra, lớn lên, … rồi chết. Chết trong bất tử, trên chính mảnh đất quê hương. Ai lại không mềm lòng, ngây ngất với những lời tha thiết, thơm nồng hương hoa đồng nội:
“… Tình chúng ta bắt đầu như mùa Thu trở lại. Khi những chùm hoa Thạch thảo ngát hương trên lối đi quen. Mùa Thu bắt đầu trên dòng sông bát ngát. Mùa Thu nhuộm vàng những cánh rừng. Mùa Thu phơi áo mơ phai, chiều võ vàng với xác hoa trên hình bướm…” .
“‘Bồ’của ông ư? Nhiều vô số kể!” - Bạn Phượng Uyên cười giòn khi nói về cái số Đào hoa của bố mình. Nhưng với mẹ bạn, ông là mối tình đầu và cũng là tình cuối.
Cả cuộc đời của bà dành hết cho ông, cho con, cho sự nghiệp sáng tác của ông. Năm tháng ông bị tù đày, bà đón hai, ba chuyến xe đò, xe lam để vào thăm ông. Thời đó, rất nhiều người phải đi thăm thân nhân ở các trại tù cải tạo. Mà để vào được trại Bố Lá, nơi ông bị giam, mỗi ngày chỉ có một chuyến xe duy nhất. Một tay bà giữ chặt cái giỏ đựng thức ăn chuẩn bị cho ông, một tay bám chặt thành xe trên chiếc xe lam luôn chật kín người, bà thậm chí có lúc chỉ còn có thể trụ tạm một chân ở phía đuôi xe. Cứ thế mà gồng mình cho hết đoạn đường.
Bà là chỗ dựa vững chắc cho ông từ ngày trở thành “bà Nguyễn Đình Toàn”. Bà chu toàn trong ngoài của cuộc sống để ông thoả sức vẫy vùng trong cõi nghệ thuật. Ở nhà, xe hư cũng bà, bóng đèn hư cũng bà… Bà hy sinh tất cả để người nhạc sĩ của bà sống trọn với đam mê sáng tác.
Rồi, bà ngã bệnh, căn bệnh lấy đi kỷ niệm, chia lìa ký ức của con người với nhau. Thật ra, bà đã bệnh hơn 20 năm, từ khi còn ở Việt Nam. Cái quên (thường xuyên) của bà đôi khi làm cho ông phải cằn nhằn. Những lúc đó, bà chỉ ngập ngừng, “em đâu có muốn quên đâu?”.
Bệnh quên quên nhớ nhớ của bà càng trở nặng khi ông bà đặt chân đến Mỹ. Câu nói “Chào cô” bà dành cho con gái của mình trong một ngày gặp mặt vào năm 2012 là dấu mốc bắt đầu cho chuỗi ngày dài bà bước vào đời sống vô tư lự. Nhìn người con trai của mình đứng trước mặt, bà ngước nhìn bằng đôi mắt lạ lẫm, rồi nói: “Sao thằng này giống con mình quá vậy?”.
Từ đó, bà trở thành “đứa trẻ” hồn nhiên trong những tháng ngày đầy ắp những ký ức chắp nối rời rạc nhiều mảnh ghép quá khứ. Hình như bà vẫn cảm nhận được sự quên - nhớ vô vọng của mình, hoặc cũng vì bà không còn nhận ra một người thân quen nào nữa, nên mỗi khi có khách đến thăm nhà, bà lặng lẽ ẩn mình không xuất hiện.
Nhưng bà quên gì thì quên, bà không bao giờ quên nhạc Nguyễn Đình Toàn. Có những ngày vui, bà luôn miệng huýt sáo những bài nhạc của ông. Âm thanh vang lên từ trong tiềm thức của bà. Đó là một khung trời riêng của bà mà không sức mạnh bệnh tật nào có thể bước vào, chiếm đoạt.
Từ ngày biết bệnh của bà trở nặng, ông không cằn nhằn như khi còn ở Việt Nam nữa. Từ chỗ trú riêng cho mình một cõi, ông bước vào việc gánh vác tất cả chuyện trong nhà, một cách rất tự nhiên. Ông từ chối những cuộc gặp gỡ bạn bè ở quán cà-phê bằng câu nói: “Thôi, đến nhà anh pha cho uống. Anh không bỏ chị ở nhà được”.
Ngày xưa, khi ông bước đến bàn ăn, cơm canh nóng đã có sẵn do bà chuẩn bị. Ngày nay, ông xới từng chén cơm cho bà, để bên cạnh đó tấm khăn giấy, đôi đũa, ly nước, và cả cây tăm, rồi đưa bà ngồi vào ghế. Ông ngồi bên cạnh, dùng cơm và nói với bà đủ chuyện, không cần biết bà có nghe, có hiểu hay không.
Đêm nhạc chủ đề Một Ngày Sau Chiến Tranh vinh danh dòng nhạc Nguyễn Đình Toàn diễn ra tại Westminster, California ngày 13 tháng 4 năm 2019, không thể thiếu hình bóng của người phụ nữ đời ông. Bà lặng lẽ, vô hồn ngồi trên chiếc xe lăn bên cạnh ông. Có thể bà không hiểu vì sao đêm đó lại đông người như thế? Vì sao ánh đèn chói chang như thế? Và cũng không hiểu trên sân khấu kia đang nói về điều gì mà người ta vỗ tay vang rền như thế? Bà lơ đãng đưa mắt nhìn vào không gian ấy, thỉnh thoảng lại đòi về, và nói những điều gì đó chắc chỉ có bà mới hiểu. Vậy mà mỗi khi một ca khúc của ông vang lên, bà hướng về sân khấu, vẫn ánh mắt đó, nhưng sáng hơn, vui hơn.
Ngày bà ra đi trong bệnh viện, ông không hay biết. Gia đình chưa dám cho ông hay. Cho đến mãi tận chiều hôm sau, được tin, ông bình tĩnh đến lạ lùng.
Chiều hôm ấy, ông ngồi lặng lẽ trước bàn thờ chưa kịp làm di ảnh của vợ, mắt nhìn vào khoảng không với những làn khói hương váng vất. Nhân dáng gầy gò của ông như viết lên hai chữ CÔ ĐỘC giữa không gian nhỏ còn vương đầy hơi ấm của bà.
Vì bà ra đi quá đột ngột, chưa kịp làm di ảnh, ông lục tìm được mấy tấm hình cũ: “Mẹ của con có mấy tấm hình đẹp lắm. Mẹ của con đẹp như hoa hậu”. Rồi ông bật khóc. Hình như rất hiếm khi ông khóc trong đời. Những ngày tháng tù đày khổ ải, ông không khóc. Những ngày tháng sau 1975 bị tước đi quyền tự do sáng tác của người nghệ sĩ, ông không khóc. Những ngày tháng phải viết lời nhạc, câu thơ bằng cây bút chì vụn trong ngục tù, rồi xoá nhanh, ông không khóc. Ngày bước chân xuống tàu rời quê hương, mang theo nỗi sợ hãi khôn cùng vì đối diện với sương đêm và nỗi chết, ông cũng không khóc. Ông chỉ âm thầm tự nói:
“Mai tôi đi, tôi đi vào sương đêm Sương rất độc, tẩm vào người nỗi chết Quê hương ta sống chia giòng vĩnh biệt Chảy về đâu những nước mắt đưa tin…” (Mai Tôi Đi – Nguyễn Đình Toàn)
Nhưng hôm nay, khi một mình đối diện mình, trong ngôi nhà không còn bà bên cạnh, ông đã khóc. Ông khóc mà không biết mình khóc, như Phạm Thái tráng sĩ từng tự hỏi lòng:
“Này Tiêu Sơn chuông chùa nào nín lặng, Hãy chiêu hồn cho đội mộ nàng lên. Nàng chết rồi ư? Ta khóc rồi ư?” (Khúc Ca Phạm Thái – Nguyễn Đình Toàn) Cả cuộc đời, ông có việc đi đâu thì đi, gặp gỡ bạn bè bao lâu cũng được, nhưng về nhà thì phải có bà. Nếu không, ông bứt rứt, khó chịu, tựa như “người không có chỗ trú thân. Tách rời ra khỏi quê hương, từ bỏ quê hương thật của mình thì chỗ khác không thể nào thay thế được đâu” – Ông đã nói như thế. Giờ đây, câu mà ông hay nói nhất với những người con của mình là: “Bây giờ nhìn đâu cũng thấy mẹ của con”.
Hơn 20 năm qua, bà không còn có thể trò chuyện, đáp lời những câu chuyện ông kể, nhưng bà đã là một “quê hương thu nhỏ” của ông, như cách ông từng định nghĩa về tình yêu: “Tình yêu giữa người đàn ông và đàn bà, thu nhỏ là tình yêu, nhưng phóng lớn lên nó là tình hoài hương”. Ngày ông phải xuống tàu lìa bỏ quê hương, ông kể rằng “có cảm tưởng như mình đứng không vững nữa, mình chênh vênh trên một cái gì đó”, và tự nhủ: “Từ đó trở đi chắc là mình đứng không vững nữa, quả thật là như vậy”.
Rồi khi bà đi xa. Thêm một lần nữa, ông phải lìa xa “quê hương” của mình.
Sự việc trong video nầy, tôi đã hỏi trí tuệ nhân tạo AI ChatGPT, và sau đây là ChatGPT đã trả lời:
1. Dự án Điện mặt trời tài trợ bởi UNDP và GEF
Tên dự án: Chương trình điện mặt trời cho vùng sâu, vùng xa không có điện lưới quốc gia.
Thời gian khởi động: Giai đoạn nghiên cứu và khởi đầu khoảng đầu những năm 1990, trong đó có nhiều hoạt động được triển khai từ năm 1993.
Đơn vị tài trợ: Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) và Quỹ Môi trường Toàn cầu (GEF).
Đơn vị triển khai tại Việt Nam: Trung tâm Năng lượng mới và Năng lượng tái tạo – Viện Năng lượng (thuộc Bộ Năng lượng, sau này là Bộ Công Thương).
Mục tiêu: Thử nghiệm lắp đặt các hệ thống điện mặt trời (PV) độc lập cho các hộ dân vùng sâu, vùng xa – nơi không có khả năng tiếp cận lưới điện quốc gia.
Kết quả: Một số hệ thống nhỏ (thường dưới 100W) được lắp đặt cho các hộ dân để phục vụ nhu cầu chiếu sáng và dùng đài radio. Từ đó đánh giá tính khả thi về mặt kỹ thuật, tài chính và xã hội.
Đọc những gì ChatGPT trả lời ở trên, tôi nghĩ những gì trong video nầy là có thật. Click vào video sau đây để xem. tth
Muốn biết giờ nơi mình sắp gọi điện thoại viễn liên, xin click vào link dưới đây:
Click Vào Đây - Để vào website của worldtimeserver. Rồi nhìn screen đầu tiên Current time in Đánh tên thành phố mà mình muốn biết giờ. Xong rồi click
Search hoặc Go để biết giờ.
Các truyện hay ViệtNam, Trung Hoa từ xưa đến nay đều có trong Ebooks nầy: