Thiếu nữ Việt Nam

Thiếu nữ Việt Nam
quá dễ thương

Wednesday, May 29, 2024

Nhân ngày chiến sĩ trận vong Hoa Kỳ 2024

 

Nhân ngày chiến sĩ trận vong Hoa Kỳ 2024                        
(Giao Chỉ, San Jose) 24/05/2024

 Hãy tưởng nhớ 60 ngàn đồng minh và hơn triệu quân dân cán chính VNCH đã hy sinh trong chiến tranh.


Nhân ngày tưởng niệm chiến sĩ tại Hoa Kỳ, ghi lại câu chuyện về trận tái chiếm Cổ Thành Quảng trị tôi phải gửi tặng nhiều người. Nhà báo Trùng Dương, tài tử Kiều Chinh và đại tá Ngô văn Định, Đại úy Phan Nhật Nam. Những người còn sống. Đại tá Phạm Văn Chung và chuẩn tướng Trần quốc Lịch những người đã ra đi. Các anh Định, Chung và Lịch cùng khóa võ bị với chúng tôi. Năm 2019 đã hy vọng rằng tháng 4 năm 2020 ghi dấu 45 năm từ khi mất nước 1975 sẽ cùng về San Jose dự quốc hận tại Việt Museum. Cùng ôn lại một thời oanh liệt. Năm 1972 Đại tá Phạm văn Chung Khóa Cương Quyết Đà Lạt lữ đoàn trưởng Mũ Xanh đang giữ vững phòng tuyến cuối cùng trên sông Mỹ Chánh. Tướng Ngô quang Trưởng khóa Cương Quyết Thủ Đức vừa ra nhận chức tư lệnh quân đoàn 1 để phản công. Ông đã đến ngay Mỹ Chánh và hỏi riêng Phạm Văn Chung.  Giữ được không, ông tướng hỏi?  Thưa trung tướng tôi giữ được. Người sinh viên khóa Cương Quyết Đà Lạt bình tĩnh trả lời.
 
Tiếp theo đại tá Trần Quốc Lịch, khóa Cương Quyết Đà Lạt chỉ huy lữ đoàn mũ đỏ vượt sông Mỹ Chánh tiến quân phía núi. Đại tá Ngô Văn Đình, Cương Quyết Đà Lạt vượt sông Mỹ Chánh tiến quân phía biển. Mục tiêu là Cổ Thành. Khi một đơn vị đầu tiên của nhảy dù đã bám được vào tường thành thị trấn thì tai họa chiến tranh đã xảy ra. Phi cơ của phe ta đã thả bom vào đội hình của cả đại đội mụ đỏ. Lính dù bị tổn thất nặng nên ông Trưởng cho lữ đoàn của Trần Quốc Lịch tạm lùi lại để lữ đoàn mũ xanh của Ngô Văn Định lên thay. Trong trận này, Định bị thương nhưng vẫn ở lại chỉ huy.
 
Trong trận Quảng Trị khóa chúng tôi có mặt một lần 3 đại tá chỉ huy. Thêm anh bạn tiểu học Hà mai Việt, đại tá thiết giáp chỉ huy mũ đen yểm trợ cho cả quân xanh, quân đỏ. Viet Museum dự trù xây một tượng đài với 4 trận đánh lịch sử để các bạn cùng khóa về tham dự lễ khánh thành Nhưng rồi Covid chặn mất đường về. Phạm văn Chung và Trần quốc lịch đã ra đi. Tháng 3 năm 54 đám thanh niên Bắc Kỳ chúng tôi lên Đà Lạt từ Hà Nội. Đã tình cờ có mặt tại Quảng Trị năm 1972. Ba anh cùng khoá cầm quân tham dự trận lịch sử. Nhưng đành lỗi hẹn năm cuối cùng tại San Jose. Xin các bạn đọc câu chuyện dài về cổ thành Quảng Trị để nhớ về những người không còn nữa. Nhân ngày chiến sĩ trận vong tại Hoa Kỳ. Các bạn làm phúc chuyển tiếp rộng rãi để xa gần và trong ngoài biết rõ ngày xưa các cụ 90 đã sống chết ra sao?

Ngày chiến sĩ trận vong 2024

Cách đây hơn 150 năm, giữa khi cuộc nội chiến Hoa Kỳ đang diễn ra, tổng thống Lincoln trong bài diễn văn tại Gettysburg đã nói những tư tưởng đi trước thời đại. Ông nói đại ý rằng những người lính bên này hay bên kia đều là những người yêu nước. Mới đây, tôi có dịp xem trên mạng hình ảnh buổi họp mặt của các gia đình tử sĩ miền Bắc VN hy sinh trong trận Quảng Trị năm 1972. Diễn giả cho chương trình tưởng niệm là đại tá Nguyễn Quý Hải, thời gian đánh Quảng Trị ông là sĩ quan chỉ huy pháo đội Bông Lau. Một diễn giả khác là bác sĩ Lê văn An của Bắc Quân. Ông là bác sĩ duy nhất đã có mặt trong Thành Cổ Quảng Trị và là một trong 11 chiến binh còn sống. Vị bác sĩ này đã tả lại những giây phút đau thương oan nghiệt cuối cùng trong vòng vây thị xã. Câu chuyện nhắc đến các chiến binh còn sống dưới hầm sâu của tòa tỉnh trưởng bị bom đánh sập nhưng không có phương tiện để cấp cứu. Hôm nay, dù Covid 19 đã đem đi hơn nửa triệu dân Mỹ nhưng vẫn còn không khí vui tươi trong dịp lễ cuối tuần Hoa Kỳ. Tưởng niệm chiến sĩ trận vong nhưng với dân Mỹ vẫn là ngày Lễ Hội.  

Tôi xin mở lại câu chuyện cũ về cuộc chiến Quảng Trị. Nửa thế kỷ trước, chúng tôi có dịp ra thăm Quảng Trị sau khi Miền Nam lấy lại được Cổ Thành. Sau 81 ngày ác mộng đã trôi qua. Hàng ngàn chiến binh 2 bên đã chết trong một thị xã bé nhỏ ở miền hỏa tuyến. Hà Nội gọi là Thành Cổ. Sài Gòn gọi là Cổ Thành. Khi miền Bắc có lệnh rút quân, chỉ có 11 chiến binh còn sống để trở về. Chúng tôi có dịp gặp một vài chiến binh cộng sản bị bắt tù binh. Trong số này có em nhỏ vượt qua bờ Nam sông Thạch Hãn nhưng không lọt vào trong Thành Cổ. Em thuộc toán quân bơi lạc vào đơn vị TQLC. Ông bạn tôi, đại tá Cao Tiêu của tổng cục chiến tranh chính trị buồn bã nhìn thằng bé quân đội thù nghịch mà hỏi rằng. Con quê ở đâu. Bao nhiêu tuổi. Thưa ông con quê Thái Bình, 16 tuổi. Sao 16 tuổi đã phải đi bộ đội. Con đi thay cho anh con. Anh con bị què chân. Nhưng nhà nào cũng phải đi. Ông Tiêu thở dài mà nói rằng. Để ông sẽ thu xếp cho con. Quê ông cũng ở Thái Bình.
 

Thưa ông con quê Thái Bình, 16 tuổi.

Chúng tôi không bao giờ quên được câu chuyện thẩm vấn tù binh ngày hôm đó. Vì vậy, nhân ngày Chiến Sĩ Trận Vong với không khí lễ hội tưng bừng tại Hoa Kỳ, xin kể lại những chuyện không vui của hai miền Nam Bắc trong chiến tranh. Chuyện từ Đại Lộ kinh Hoàng cho đến 81 ngày trận chiến Quảng Trị. Như vị tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ đã nói. Trong chiến tranh, những chiến binh của hai bên đã hy sinh đều là những người yêu nước. Từ Hà Nội, anh Ba Lê Duẩn ra lệnh phải giữ Thành Cổ bằng mọi giá. Từ Sài Gòn, Tổng Thống Ng Văn Thiệu ra lệnh phải lấy lại Cổ Thành bằng mọi giá. Quảng Trị là con bài trong canh bạc chính trị tại hội nghị Paris. Chiến binh hai miền Nam Bắc chết trong thị xã Quảng Trị ai là phe thắng, ai là phe bại. Xin bằng hữu cùng tôi đọc lại các tác phẩm viết về Đại Lộ Kinh Hoàng và Mùa hè đỏ lửa của miền Nam. Xin đọc qua Mùa hè Cháy, Mãi mãi tuổi 20 và Một thời hoa lửa của miền Bắc. Những mẩu chuyện như sau:
 
(1) Ngày Chiến Sĩ Trận Vong                                                    

 Người Mỹ tưởng niệm những quân nhân đã hy sinh vì đất nước trong ngày lễ Chiến Sĩ Trận Vong. Ngày quốc lễ này năm nay là Thứ hai 27 tháng 5-2024. Khắp nước tổ chức tưởng niệm các tử sĩ với những cuộc diễn hành, các buổi hòa nhạc nói lên tinh thần yêu nước. Các cộng đồng khác sẽ đánh dấu ngày này bằng những giây phút suy ngẫm trong tĩnh lặng về những người đã ngã xuống trong khi đang phục vụ trong quân đội. Ngày lễ này từng được gọi là Ngày Vinh Danh được tổ chức tại nghĩa trang Arlington vào năm 1868. Ba năm sau cuộc nội chiến đẫm máu ở Hoa Kỳ gây thiệt mạng cho trên 600.000 người. Nhiều trường học được nghỉ lễ vào 3 ngày cuối tuần này và được xem như ngày khởi đầu không chính thức của mùa nghỉ hè. Nhiều gia đình tổ chức các buổi ăn ngoài trời hay đi đến vùng biển, công viên hoặc cắm trại. Nhân dịp đặc biệt này, năm trước chúng tôi đã phổ biến loạt bài về tổn thất trong chiến tranh. Năm nay xin gửi đến tài liệu ghi nhận được về trận Quảng Trị năm 72 để quý vị đọc trong những ngày nghỉ lễ.
 
(2) Năm 72 Ở Quảng Trị .

Ghi Chú: Một phần bài này viết năm 1990 phổ biến khắp nơi. Bỗng có một cựu pháo thủ Bắc quân thuộc đoàn pháo Bông Lau gửi email cho tôi báo tin rằng không phải pháo Bông Lau của cộng sản bắn trên Đại Lộ Kinh Hoàng. Tôi hỏi lại, nếu Bông Lau không bắn thì pháo nào. Không thấy trả lời. Sách của Dương Phục và Thanh Thủy phát hành cũng có đoạn tả về Đại Lộ Kinh Hoàng.
 
Thời kỳ trước 1975, khi tôi có dịp phụ trách về binh thư tại bộ Tổng Tham Mưu, thường qua bên Phòng Nhì hoặc Trung ương tình báo tìm đọc các sách báo của miền Bắc. Đọc và ghi chép lại, thêm 1 chút nhận xét, nhưng không phê phán. Đôi khi phải tóm lược lại để trình lên hay phổ biến nội bộ nhưng tuyệt đối không viết thêm những lời tuyên truyền hay lên án.
 
Ngày nay trên đường đi tìm tài liệu cho trận Quảng Trị, chúng tôi giữ các nguyên tắc đó. Bây giờ xin quý vị cùng chúng tôi tìm hiểu về miền Bắc Việt Nam thời kỳ đầu thập niên 70.
 
Để chuẩn bị cho trận mùa hè 72, Hà Nội bắt lính từ năm 1970. Sau khi vét hết nông dân, qua năm 1971 tổng động viên toàn bộ nhân lực thành thị. Các học sinh và sinh viên trên 18 tuổi chuẩn bị nhập ngũ hết. Cũng trong thời gian này, Nga và Tàu hoàn toàn đồng ý viện trợ cho Hà Nội đánh Mỹ. Trong lúc Hoa Kỳ rút quân, bên ta Việt Nam hóa chiến tranh thì Nga Xô viện trợ tối đa cho miền Bắc qua Trung Cộng.

(3) Sau trận mùa hè

Phan nhật Nam viết cuốn “Mùa hè đỏ lửa”năm 72 thì 33 năm sau Hà Nội mới cho ra đời 2 cuốn sách viết về Quảng Trị. Đại tá pháo binh quân đội nhân dân Nguyễn Quý Hải ra đời cuốn “Mùa Hè Cháy” ghi lại con đường nhận pháo Nga &nb font-size: medium;"> về Hà Nội đưa vào đến Quảng Bình, rồi qua Quảng Trị trong trận mùa hè. Với số lượng pháo đủ loại và hỏa tiễn, 5 sư đoàn Bắc quân đã được yểm trợ tối đa để tấn công miền Nam trực tiếp qua Bến Hải.

Tất cả đều ghi rõ trong tác phẩm “Mùa Hè Cháy” và chính từ tác phẩm này tôi có thể đối chiếu với tài liệu còn lưu giữ để có được những trang sử gần chính xác về phía Việt Nam Cộng Hòa. Cũng vào năm 2005 một tác phẩm khác của phe cộng sản tựa đề “Một Thời Hoa Lửa” đã ra đời, cũng nói về đề tài Quảng Trị. Bài viết này sẽ ghi lại rất nhiều chi tiết từ Hoa Lửa do các tác giả miền Bắc sáng tác.
 
(4) “Mãi mãi tuổi 20”

Tập hồi ký được Hà Nội nhắc nhở đến nhiều nhất là: “Mãi mãi tuổi 20,” hồi ký của 1 thanh niên tên Nguyễn văn Thạc. Anh là Sinh Viên đại học Tổng hợp Hà Nội. Đi lính binh nhì truyền tin ngày 6-9-1971 và hy sinh tại chiến trường Quảng Trị ngày 30-7-1972, lúc chưa đầy 20 tuổi và chưa đủ 1 năm lính. Anh bị pháo cắt ngang đùi trái, mất máu nhiều quá nên đã chết. Chôn ngay tại mặt trận Quảng Trị. Thạc để lại cuốn nhật ký 260 trang, viết lời cuối vào ngày 27-7-1972. Ba ngày sau tử trận. Tháng 5-1973 tức là gần 1 năm sau, gia đình chưa có tin tức từ đơn vị, nhưng được đồng đội về báo tin. Sau tháng 4-1975 gia đình không có phương tiện đi tìm xác. Phải chờ đến cuối năm 1976 mới có điều kiện đi tìm. Cải táng từ quận Triệu Phong về huyện Từ Liêm, gần Hà nội vào dịp tết 1977. Tôi đã đọc 2 lần 260 trang sách nhưng không tìm được những dữ kiện về trận Quảng Trị. Hồi ký ghi lại 10 tháng trong quân ngũ của 1 thanh niên miền Bắc, nhưng mới vào trận đã bị thương rồi chết. Nội dung là lời lẽ chân thành đơn giản nhưng không có tình tiết hấp dẫn. Tác phẩm này được giới trẻ miến Bắc tìm đọc vì đã nhắc đi nhắc lại đến tình yêu tuổi học trò với cô bạn học Như Anh. Cô này hiện nay là di dân sống tại Đức quốc. Vì tác phẩm nặng về tình yêu và thiếu quyết tâm nên đã không được phổ biến suốt 33 năm. Phải chờ đợi đến cuối thế kỷ thứ 20, nhạc vàng miền Nam chinh phục hoàn toàn nền văn hóa vô sản thì hồi ký tình yêu của Nguyễn văn Thạc mới được phổ biến và quảng bá mạnh mẽ.

(5) “Một Thời Hoa Lửa”

Đây là tên 1 tác phẩm, đồng thời cũng là tên 1 chương trình do đài truyền hình Việt Nam tại Hà Nội và công ty viễn thông quân đội nhân dân phối hợp tổ chức vào ngày 31 tháng 10 năm 2005. Ban tổ chức mời tất cả bộ đội đã tham dự trận Quảng Trị trên 1.000 người về lại Thành Cổ để dự 1 chương trình văn nghệ. Cùng 1 lúc họ tập hợp lối 5.000 sinh viên Hà Nội tại sân trường đại học Khoa học, Xã hội, Nhân văn cùng tham dự. Báo Nhân dân đã ghi lại là vào ngày 6 tháng 9 năm 1971 tại 30 sân trường đại học và cao đẳng, tổng cộng 10.000 sinh viên lên đường nhập ngũ.

Như vậy là 52 năm trước đảng cộng sản đã động viên hầu hết các sinh viên miền Bắc để tấn công miền Nam. Có nhiều trường đại học sau đó đóng cửa, các giáo sư cũng đi lính với học trò. Hầu hết có được 4 tháng huấn luyện và đầu năm 1972 tất cả lên đường vào Nam tham dự vào 3 mặt trận. An Lộc, Kontum, và Quảng trị. 70% bộ đội hy sinh hoặc bị thương. Trận Mậu Thân 68 Việt Cộng hy sinh toàn bộ các đơn vị thuộc Mặt trận giải phóng miền Nam và bộ đội tập kết.

Qua đến trận Mùa hè 72 đảng cộng sản Việt Nam hy sinh khối nhân lực trí thức tương lai của miền Bắc. Người có quyết định sắt máu đó là Lê Duẩn.

 Lúc 10 giờ 30 sáng ngày 30/3/72 trung đoàn pháo Bông Lau khai hỏa trận địa pháo vào căn cứ Carroll, Ái tử và Mai Lộc. Ngày 2/4/1972 căn cứ Carroll thất thủ. Sau đó Ái Tử, Mai Lộc rồi Quảng Trị đều rút quân. Một tháng sau, ngày 1 tháng 5-1972 Bắc quân chiếm đóng trên tỉnh Quảng Trị từ sông Bến Hải đến sông Mỹ Chánh. Sau khi miền Nam rút quân, xác người và di sản chiến tranh vẫn còn trên quốc lộ số 1. Báo chí Sài Gòn ghi lại con đường đã trở thành đại lộ Kinh Hoàng.

Hội nghị hòa đàm Paris bước vào năm thứ 4. Hoa kỳ đơn phương rút quân. Khối cộng sản Nga Sô và Trung Cộng đổ chiến cụ và tiếp viện tối đa vào miền Bắc.

Mở đầu cho giai đoạn thử thách Việt Nam hóa chiến tranh, quân lực Việt Nam Cộng Hòa hành quân Lam Sơn 72. Nam quân vượt sông Mỹ Chánh ngày 28 tháng 6-1972 và kết thúc việc chiếm lại Cổ Thành Quảng Trị ngày 16 tháng 9-1972. Sau 81 ngày tại một chiến trường khốc liệt nhất trong chiến tranh Việt Nam. Báo chí miền Bắc gọi là Cuộc đụng đầu của lịch sử. Hơn 30 năm qua và cho đến ngày nay, Hà Nội luôn luôn nhắc đến chiến tích đã cầm cự được 81 ngày.

Tại viện bảo tàng lịch sử Thành Cổ hiện nay có bảng tưởng niệm với 81 tờ lịch ghi dấu 81 ngày trong cuộc chiến mùa hè 72. Thêm vào đó có 11 tấm phù điêu tiểu sử 11 chiến binh đã có mặt trong Cổ Thành và còn sống trở về. Mỗi người đều ghi lại cuộc đời sinh viên, nhập ngũ, chiến đấu và ngày về. Phù điêu gọi là Dương bản. Còn Âm bản là mộ bia tưởng niệm chung trên 10.000 bộ đội đã hy sinh.

Trong đêm văn nghệ Hoa Lửa 31/10/2005 họ đã dùng 81 nhạc công trong ban hòa tấu để nhắc lại ý nghĩa của 81 ngày lịch sử.
 

(7) Cổ Thành gian khổ.

Cũng theo tài liệu của miền Bắc, tuyển tập Hoa Lửa ghi lại bút ký, bài viết và lời phát biểu của gần 100 nhân vật về trận mùa hè 72. Sách xuất bản năm 2005 ngôn ngữ Hà Nội đã có khác biệt với tài liệu tuyên truyền phổ biến trước và sau 1975. Không còn những lời miệt thị miền Nam. Họ gọi quân lực Việt Nam Cộng Hòa, tổng thống Nguyễn văn Thiệu, trung tướng Ngô quang Trưởng. Đồng thời qua tài liệu với nội dung mở rộng đã có đề cập đến số tổn thất, thương vong khủng khiếp, nỗi sợ hãi, việc đào ngũ của chiến binh.

Đặc biệt có những chỗ ghi rõ tuổi tân binh có nhiều em dưới 18 tuổi. Các chú lính mới chưa được huấn luyện và cán bộ quân sự đã dạy bắn hay ném lựu đạn lúc còn ở dưới hầm trong Cổ Thành. Họ lùa tất cả đám lính mới qua sông rồi sẽ huấn luyện sau. Cuộc sống của hàng ngàn bộ đội dưới hầm là một thế giới cực kỳ gian khổ. Các hầm đều ngập nước. Không đủ nước uống. Không đủ ăn. Điều kiện vệ sinh hết sức khốn nạn. Người sống ở chung với thương binh và người chết. Trên 20% thương vong khi vượt sông Thạch Hãn. Sau đây là 1 đoạn nguyên văn của cán bộ quân sự viết lại: “Trong 81 ngày đêm đó, trung bình hàng đêm có 1 đại đội tăng cường hơn 100 người vượt sông và cũng từng đó con người đã ra đi không trở về. Máu thịt hòa vào nước sông trôi ra cửa Việt.”

Một chiến binh khác viết về những ngày sau cùng: Đêm 13/9/1972 Hồ Tú Bảo là sinh viên đại học toán, làm trinh sát cho sư đoàn 325 được lệnh qua sông vào tiếp viện. Suốt 2 ngày 13 và 14 tháng 9 không vượt được sông Thạch Hãn, Ngày 15 tháng 9-72 chuẩn bị vượt sông nhưng bến đáp cả 2 bờ Bắc Nam không còn nữa. Trong thành vẫn có súng nổ. Đến ngày 16/9/72 thì Cổ Thành Quảng Trị đã hoàn toàn im tiếng. Chỉ còn những ngọn khói bốc lên.

Đơn vị được lệnh rút về và hiện nay anh lính trinh sát sư đoàn 325 trở thành giáo sư tin học tại đại học Hà nội.

(8) Cờ bay trên Thành Cổ.


Phía Việt Nam Cộng Hòa rất hiểu rõ ý nghĩa của việc tái chiếm Cổ Thành để dành thắng lợi trên bàn hội nghị. Phía Hà nội cũng ghi nhận đây là điểm quan trọng nhất. Hòa đàm Paris dự trù tái nhóm ngày 13 tháng 7-1972. Tài liệu của miền Bắc ghi lại rằng:“Tướng Ngô quang Trưởng đôn đốc nhẩy dù phải chiếm bằng được nhà thờ Tri Bưu ngày 12 và sau đó chỉ còn 500 thước đến Cổ Thành thì phải cắm cờ vào ngày 13/7/72. Kết quả quân Dù của VNCH chiếm được Tri Bưu nhưng quân ủy trung ương Hà Nội ra lệnh trung đoàn 48 và 2 tiểu đoàn địa phương, trung đoàn 95 của sư đoàn 325 phải sẵn sàng để chống vụ cắm cờ bằng mọi giá.

Một trang báo dài của đại tá Nguyễn Hải Như, tham mưu trưởng trung đoàn Thạch Hãn đã mô tả về trận quân Dù đánh xong Tri Bưu nhưng thất bại trong việc treo cờ Cổ Thành ngày 13/7/72. Sau trận đánh đẫm máu mà lính mũ đỏ hy sinh rất nhiều. Tài liệu của cộng sản cũng ghi rõ cách đánh rất dũng mãnh của cả 2 binh đoàn nhẩy dù và thủy quân lục chiến trong trận Cổ Thành. Bên Việt Nam Cộng Hòa có lợi thế thay quân. Đánh rồi ra nghỉ. Đưa thương binh tử sĩ ra khỏi trận địa. Trong khi phía miền Bắc không có điều kiện thuận tiện vì thay quân là phải qua sông và thương vong trên sông Thạch Hãn rất cao.

 
(9) Sau cuộc chiến.

Cũng từ tài liệu của miền Bắc ghi lại, trên toàn thể Việt Nam, Quảng Trị là nơi có 2 nghĩa trang liệt sĩ lớn nhất. Nghĩa trang Trường Sơn và nghĩa trang Quảng Trị. Phần lớn chiến binh cộng sản tử trận được gom lại chôn tại Quảng Trị. Một số lớn còn thất lạc. Các cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hòa khi qua Mỹ được hỏi về di hài lính Mỹ cũng đã tiết lộ thêm về các mộ phần của bộ đội tại miền Nam do bên ta chôn cất. Phía Hoa Kỳ có chuyển tin tức này cho Hà nội. Tuy nhiên về việc tìm kiếm mộ phần của phía Việt Nam Cộng Hòa trước 75 bao gồm thêm di hài tù tập trung “cải tạo“ hiện vẫn chưa được chính quyền Hà Nội lưu tâm. Gần 50 năm sau tháng 4-1975 dân Việt tỵ nạn đã có cả triệu lần trở về cùng với hàng tỷ mỹ kim gửi quà hàng năm, nhưng vết thương chính trị vẫn còn là gánh nặng nên chưa giải tỏa được con đường vào chốn tâm linh.
 
Thuần túy trên lãnh vực tâm linh, nghĩa tử nghĩa tận, chỉ có chính quyền Hà Nội mới có thẩm quyền và trách nhiệm tối thiểu đối với di hài chiến sĩ miền Nam.

Với danh nghĩa người Mỹ gốc Việt, với sự cộng tác mạnh mẽ của tòa đại sứ Mỹ tại Việt Nam, việc tìm kiếm tảo mộ di hài chiến binh miền Nam đưa về nguyên quán hay chôn tại Nghĩa trang Biên Hòa với sự bảo quản tối thiểu, không có gì khó khăn.

Hà Nội đã bước vào kỷ nguyên mới, phải ý thức được những điều phải làm trong trách nhiệm với lịch sử dân tộc, theo trào lưu tiến hóa của nền văn minh nhân loại.


(10) Hàn gắn thương đau.

Năm 1992, hai mươi năm sau mùa hè 72, Hội VMA (Vietnam Memorial Association) gồm các cựu chiến binh Hoa Kỳ muốn hàn gắn thương đau của Việt Nam hậu chiến. VMA dự trù xây trường học tại các nơi hẻo lánh cả 2 miền Nam Bắc. Ban quản trị họp để tìm 1 địa điểm đầu tiên. 8 ông bà Hoa Kỳ bàn về các địa điểm. Ý kiến rất khác biệt, Cô Kiều Chinh là người Việt duy nhất, đồng sáng lập viên của VMA đã đề nghị ngôi trường đầu tiên sẽ xây tại Quảng Trị. Nơi mang vết thương lớn nhất của chiến tranh Việt Nam. Nơi chia cắt 2 miền suốt 21 năm. Toàn thể VMA đều đồng ý chọn đất cho ngôi trường tại Đông Hà coi như món quà của người phụ nữ Việt Nam tỵ nạn cộng sản gửi lại quê hương. Bức thông điệp đẹp đẽ biết dường nào. Năm 1954, cha của cô Kiều Chinh bị Việt cộng bỏ tù không bản án và chết trong tù. Thêm một ngôi trường được xây cất tại làng Mọc, quê hương của ông Nguyễn Cửu, thân phụ của cô Nguyễn thị Chinh, tên thật của tài tử Kiều Chinh. Cô ra đi lúc còn nhỏ 1954 và từ đó không bao giờ thấy được mặt cha. Trong phim “Người tình không chân dung” có đoạn Kiều Chinh quay tại nghĩa trang Biên Hòa cũng vào năm 1972. Một ngày nào đó, cô sẽ lên thăm lại nghĩa trang quân đội miền Nam, nơi có rất nhiều chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh tại chiến trường Quảng Trị mùa hè 72. Không thiếu bất cứ 1 quân binh chủng nào, không thiếu bất cứ màu cờ sắc áo nào. Kể cả lính Dù chết dưới chiến hào với cờ vàng pha máu và lính thủy quân lục chiến hy sinh trong thành nội 10 ngày sau cùng, chưa thấy được lá cờ bay trên trời xanh của Cổ Thành Quảng Trị. Phía bên kia Bến Hải một thời, có câu chuyện của họ. Bây giờ đến lượt chúng ta phải kể lại câu chuyện của mình. Nếu anh không nói, ai nói. Bây giờ không nói, bao giờ. Năm 1992 cơ quan IRCC/Viet Museum và Dân Sinh Media lần đầu tiên phát động chiến dịch tảo mộ chui tại nghĩa trang Biên Hòa. Yểm trợ Thượng sĩ Tảo cầm đầu anh em thương binh cùng với 2 cô nữ quân nhân Biệt khu thủ đô tổ  chức tảo mộ hàng năm. Nhân viên IRCC và cả thân nhân nhà Giao chỉ cùng Phạm Phú Nam cũng về công tác. Các tổ  chức và nhiều cá nhân cùng tiếp tục tham gia. Hải ngoại đã  viết thư cho Hà nội và bộ ngoại giao Hoa Kỳ. Ngày nay hồ sơ Nghĩa trang Biên Hòa đã trở thành hiện hữu với nhiều hy vọng sẽ trở thành di tích lịch sử. Năm 2022 Việt Museum San Jose đã đón nhận tượng đài Quảng Trị từ miền Nam CA thực hiện. Năm 2023 lại tiếp nhận phiên bản tượng Thương tiếc do bà Đào làm chui từ Việt Nam. Đây là tác phẩm kỳ diệu thay thế tượng thiêng liêng đã bị cộng sản phá bỏ.
 

(11) Tổn thất chiến tranh.

Vì vậy sau khi nghe chuyện bên kia, chúng ta hãy nói chuyện bên này. Rồi đến năm 2025, nửa thế kỷ sau cuộc chiến, sử Việt sẽ ghi rằng chiến tranh Việt Nam đã làm chết 3 triệu dân trên khắp các miền đất nước. Riêng tại Quảng Trị, mùa hè năm 1972 cuộc chiến giằng xé điên cuồng đã giết chết 50 ngàn thanh niên của cả hai miền Nam Bắc. Lịch sử sẽ không cần ghi phần tổn thất hay thắng bại của các đơn vị. Sau này những đóa hoa tưởng niệm thả xuống dòng Thạch Hãn hay con sông Bến Hải sẽ cùng trôi ra biển Đông. Thể hiện tấm lòng của thế hệ tương lai gửi chung cho tất cả linh hồn các chiến binh đã hy sinh cho cuộc chiến tương tàn cuối thế kỷ thứ 20 tại Việt Nam.
 
(12) NHÂN CHỨNG TRÊN ĐẠI LỘ KINH HOÀNG

Khi đi tìm nhân chứng của 1 chiến trường hết sức oan nghiệt và thê lương, hết sức dũng mãnh và hào hùng, tôi vẫn không quên đoạn đường đầy xác người trên quốc lộ số 1. Ngay khi chiến trường còn vương khói súng, cây bút nhẩy dù, đại úy Phan nhật Nam đã viết “Mùa hè đỏ lửa.” Tác phẩm đem vinh quang cho tác giả đồng thời cũng làm khổ ông sau 1975. Nhưng trước sau “Mùa hè đỏ lửa” đã gắn liền với tên tuổi Phan nhật Nam.

Phải chờ đến 32 năm sau, Hà Nội mới xuất bản cuốn “Mùa hè cháy“ của đại tá pháo binh “Quân đội Nhân dân” viết về trận pháo kích của trung đoàn pháo Bông Lau, trận pháo dã man trên đường di tản của dân Quảng Trị, giết chết hàng ngàn người và làm đoạn đường trên 2 cây số giữa con sông Thạch Hãn và Mỹ Chánh trở thành Đại lộ Kinh Hoàng.

Chúng tôi vẫn đi tìm xem ai là người đặt tên cho đoạn đường của trận thảm sát mùa hè năm 72. Có lẽ chỉ trong chiến tranh Việt Nam mới có cái đại lộ mang tước hiệu kinh hoàng.

Anh phóng viên của bộ Thông Tin có mặt tại Quảng Trị nói rằng bác đi hỏi ông Lê Thiệp trên DC. Khi quân ta phản công ở Mỹ Chánh, ông nhà báo Lê Thiệp có đi theo trên quốc lộ 1 qua lối này. Năm 2005 nhân dịp gặp ông Thiệp tại DC, ông nói rằng không biết tay nào đặt cái tên Đại lộ Kinh Hoàng thật hay. Câu chuyện dừng tại đó vì Lê Thiệp cũng ra đi.  Một lần khác, chúng tôi rao lên là muốn tìm gặp những ai đã chạy trên con đường ác độc vào đúng lúc địch pháo kích. Tôi biết có trung tá Lê huy Linh Vũ của Tổng cục Chiến tranh Chính trị là người đã trải qua và đã viết lại thành cuốn sách. Con gái của trung tá Vũ là họa sĩ Hương Alaska có cho phép chúng tôi in lại cuốn này để tặng các bạn. Nhưng ông Vũ nay không còn nữa. Đại tá Hà Mai Việt, tỉnh trưởng Quảng Trị thời kỳ 72 đã nói rằng: “Tại ông không lưu tâm đọc sách của tôi. Mở trang này ra mà xem, nhân chứng sống là ông Phan văn Châu. Tôi đã viết rõ từng trường hợp của trận Quảng Trị trong tác phẩm Thép và Máu. Ông nhân chứng này không những chịu đựng trực tiếp trận pháo trên quốc lộ mà còn nằm lại 1 đêm giữa các xác chết.”

Sau cùng nhờ ông Hà mai Việt, chúng tôi đã gặp nhân chứng sống. Trung sĩ Phan văn Châu năm nay hơn 80 tuổi quả thực là 1 người dân tiêu biểu của miền đất Quảng. Qua máy điện thoại, dường như cả một trời tâm sự tuôn tràn. Những hình ảnh quê hương, chiến tranh, loạn lạc, pháo kích, khói lửa, lẫn lộn giữa trận 72 và trận 75.
 
Nói đến chuyện đất nước biết bao nhiêu địa danh nào là Nhan Biều, Cầu Ga, Ái Tử, Mai Lĩnh, Cầu Dài. Rồi đến biết bao nhiêu con sông, bao nhiêu rạch nước. Âm thanh đất Quảng của người dân chân chỉ hạt bột, vòng qua quay lại để sau cùng trở về với cái ngày cả gia đình bỏ Nhan Biều mà đi. Ông Châu nói rằng, lúc đó dường như mọi người đã chạy hết. Phan văn Châu là trung sĩ thông dịch viên cho ngành tình báo tại Đà Nẵng đang đi công tác về Ái tử.

Đến khi thiên hạ bỏ chạy hết, thầy thông ngôn trẻ tuổi mặc đồ dân sự cùng 1 đứa cháu, dẫn vợ có bầu với 3 đứa con nhỏ, năm một, sáu, bảy, tám tuổi. Tất cả vội vàng ra đi bỏ lại phía sau căn nhà mới cất tại Nhan Biều bên bờ Bắc của sông Thạch Hãn.

Vợ con đi trước 1 đoạn với gia đình bà chị. Thằng cháu và ông Châu đi xe gắn máy kéo theo 1 chiếc xe gỗ 2 bánh. Hành trang chất đầy, người kéo, người đẩy chiếc xe qua khỏi cầu Ga, đi được một đoạn dài đến 9 giờ sáng thì pháo nổ ngay trên đường. Con đường đầy người chạy loạn. Cả dân cả lính với đủ mọi thứ xe. Đa số đi bộ vì đường tắc nghẽn nên không thể đi nhanh. Đạn rơi chỗ nào cũng có người chết. Xác bắn tung lên trời. Khói lửa mù mịt. Mạnh ai nấy chạy. Vợ con thất lạc ngay từ lúc đó. Ông Châu nghĩ rằng vợ con có thể đang ở phía trước. Nhưng phía trước hay phía sau thì cũng bị pháo. Khi pháo tạm ngưng thì có người lại tràn ra đi tới. Nhưng phần lớn nằm yên chịu trận. Có nhiều người không chết ở đợt pháo đầu nhưng rồi bị chết ở các đợt pháo sau. Nhiều xác chết trên đường bị pháo đi pháo lại nhiều lần. Bị thương lại bị pháo rồi cũng chết.  

Biết bao nhiêu người cố chạy cho thoát bỏ lại cả gia đình vợ con. Những đứa nhỏ nằm khóc bên xác mẹ. Những em bé sơ sinh bú vú mẹ đã lạnh khô. Có người còn sống thấy đó mà phải bỏ đi. Ông Châu và đứa cháu chạy về phía đông quốc lộ, vùi thây xuống cát mà chịu đựng 1 ngày pháo kích. Đủ loại pháo của cộng sản thay phiên bắn phá suốt một ngày dài. Pháo 122, pháo 130 và pháo 155. Chỉ khi nào có B52 đến thả bom mới thấy địch im tiếng súng được 1 lúc.Toàn thân ông tê liệt dưới trời nắng gắt. Phải bò đến các vũng nước có cả phân trâu và máu người để uống. Khi trời tối dần, tất cả đều im lặng và ghê sợ.  

Ông Châu và đứa cháu bắt đầu bò quanh lật các xác chết đàn bà và trẻ em lên xem có phải vợ con. Lật một xác phụ nữ mà ông nghĩ rằng người vợ, đầu óc ông mê muội. Thằng cháu còn tỉnh táo nói rằng không phải mợ. Mợ có bụng mà cậu. Mấy người khác còn sống cũng làm như vậy. Tất cả đi tìm xác thân nhân. Nhưng rồi trời tối hẳn, bộ đội Việt Cộng bắt đầu xuất hiện. Chúng tìm đến các xe nhà binh và tìm các quân nhân mặc quân phục bắt đi hết. Cậu cháu ông Châu khai là dân thường nên được lệnh phải nằm yên tại chỗ. Đêm hôm đó, ông Châu thức trắng trên bãi cát đẫm máu của Đại lộ Kinh Hoàng. Hình như có đôi lúc ông cũng thiếp đi. Cũng chẳng còn nhớ rõ. Chung quanh toàn xác chết. Người chết nhiều hơn người sống. Những xác chết cháy như than củi. Ông nghĩ rằng chắc xác vợ con cũng quanh đây. Sáng hôm sau, từ sớm mai những người còn sống đành phải bỏ lại 1 cánh đồng xác ở đằng sau để chạy về miền Nam. Đi đến cầu Dài gần sông Mỹ Chánh thì gặp toán tiền sát của thủy quân lục chiến Việt Nam chận lại. Khi biết chắc là không phải quân địch, ông trung úy thủy quân lục chiến phất tay cho qua. Vừa đi khỏi một đoạn đường thì thấy ông sĩ quan bị du kích phía sau bắn sẻ chết ngay tại chỗ. Đó là cái chết cuối cùng ông Châu chứng kiến tại Quảng Trị. Tìm xe quá giang về Huế với tâm trạng hết sức não nề. Nhưng rồi phép lạ đầu tiên đến với cuộc đời ông. Ngay tại khu vực tạm cư Phú văn Lâu, thuộc thành phố Huế, ông gặp lại đầy đủ vợ con. Bà vợ bầu đã dẫn 3 đứa con nhỏ đi xuống đường ven biển theo dân địa phương. Đoàn người đi xa quốc lộ nên tránh được pháo kích.
 
Vợ con dắt díu nhau đi suốt 1 ngày 1 đêm về đến Mỹ Chánh rồi được xe cho bà bầu quá giang về Huế. Hai năm sau người vợ đầu tiên của ông Châu qua đời, sau khi sinh cho ông thêm 2 ngưới con nữa. Cô gái còn nằm trong bụng mẹ trên đại lộ kinh hoàng năm nay đúng 47 tuổi, tốt nghiệp đại học và có gia đình cư ngụ tại miền đông Hoa Kỳ.

Những bước chân trần ai trên bãi cát Quảng Trị mùa hè năm 72 của bà mẹ mang bầu không biết có còn vương vấn chút nào trong lòng cô bé nghe pháo kích từ lúc chưa ra đời. Ông Châu nói rằng: Tụi nhỏ chẳng biết gì đâu. Chỉ có đứa lớn nhất năm nay ngoài 50 tuổi là còn nhớ đôi chút. Hỏi rằng thế ông có được bao nhiêu con tất cả. Ông tính nhẩm rồi nói rằng tất cả 10 con. Bà đầu tiên 6 con. Bà thứ hai 3 con. Bà này bỏ tôi đi lấy chồng nên bây giờ vẫn còn ở Việt Nam. Tôi đưa cả 3 cháu đoàn tụ bên này. Bà hiện nay ở với tôi có 1 cháu. Năm nay cháu cũng 30 tuổi rồi. Bà sau này có 1 con riêng. Như vậy là chúng tôi có 11 con. Thế bác có hạnh phúc không. Hạnh phúc chứ. Tất cả là số trời. Ông Châu nói rằng, cái đêm nằm ở đại lộ kinh hoàng, uống nước máu người và phân trâu tôi không bao giờ giờ nghĩ đến có ngày đi Mỹ như bây giờ. Tôi nghĩ rằng bây giờ vợ con chết hết thì mình sẽ ra sao. Làm sao tìm xác. Rồi chôn ở đâu. Hàng trăm xác người chung quanh, biết bao nhiêu xác trẻ con, nếu vợ con tôi trong số đó. Không hiểu nó bắn pháo đạn gì quá ác. Tất cả xác chết như than củi chẳng làm sao biết được người nào là người nào.

“Năm 1973 tôi có trở lại, đi qua con đường thấy có đài tưởng niệm, rồi có các mồ chôn tập thể, có mồ chôn riêng rẽ. Lòng tôi hết sức xúc động. Cho đến bây giờ tôi vẫn còn xúc động. Con cháu tôi thì nhiều nhưng mà làm sao các con hiểu được những gì tôi đã trải qua. Trận 72 quân ta mới lấy lại một nửa Quảng Trị. Đứng bên này dòng Thạch Hãn, bên kia là Nhan Biều, nơi tôi ra đời còn cả ngôi nhà thân yêu. Bên ta đã bị địch chiếm bờ Bắc, chỉ giữ được bờ Nam, đến 75 thì bờ Nam cũng chẳng còn.”
 
“Vâng thưa bác, năm nay em ngoài 80 tuổi,” ông Châu nói tiếp, “quê ở Nhan Biều, bờ Bắc sông Thạch Hãn, ngay dưới cầu Ga. Nhà em thi vào làm trung sĩ thông dịch viên năm 1966 khóa 11 tại quân đoàn I. Sau 75 em trốn được. Nếu khai thật chắc là bị buộc tội CIA.

Bờ sông Mỹ Chánh và cây cầu mới năm 2009. Mùa hè năm 1972, Nam quân và thường dân đã chạy qua “Đại lộ Kinh hoàng” để rút về phía Nam sông này.

Sau đó em vượt biên rồi đoàn tụ. Trước sau 3 vợ, 11 người con. Bà sau này là bà bền chặt nhất đã sống với nhau 35 năm. Vâng, thưa bác đây chắc chắn là bà sau cùng. Gia đình em rất hạnh phúc. Phần em, dù có bị kinh hoàng nhưng cũng chỉ có 1 ngày 1 đêm. So với người ta có người cả đời kinh hoàng thì nỗi khổ của chúng em có thấm vào đâu.”

Đó là câu chuyện của ông Châu, nhân chứng số 1 của chúng tôi. Tôi hỏi ông Châu câu cuối cùng. “Ông có biết ai đặt tên Đại lộ kinh hoàng.” “Không đâu,” bây giờ ông gọi tôi là cụ. “Cụ với cụ Hà Mai Việt không biết thì ai mà biết. Nhưng quả thực là kinh hoàng thực đấy các cụ ạ.”

Tuy hỏi vậy, nhưng tôi đã tìm ra. Số là vào mùa hè năm 72 đó, có anh phóng viên trẻ tuổi bút hiệu Ngy Thanh cũng ra chiến trường Quảng Trị. Anh đã bỏ ra cả 1 ngày dài trên đoạn đường oan nghiệt. Chụp hình các xe cháy, các xác chết và có được 1 bộ hình hết sức đặc biệt. Khi về lại Saigon viết loạt bài phóng sự, anh có đặt tên là Đại lộ Kinh Hoàng. Câu chuyện làm xúc động độc giả tại thủ đô. Chủ nhiệm là chị Trùng Dương bèn cùng anh chị em quyên góp tiền bạc ra Trung tổ chức nhặt xác và chôn cất. Câu chuyên ngày đó có lẽ ai cũng biết, nhưng ngày nay ai cũng quên hết cả rồi. Hành động của báo chí và đồng bào tự nguyện đứng lên lo việc chung sự cho nạn nhân của đại lộ kinh hoàng là 1 câu chuyện ý nghĩa nhất trong phần nhân bản của trận Quảng Trị mùa hè 72.

Hai tháng sau đêm kinh hoàng của ông Phan văn Châu, quân miền Nam vượt sông Mỹ Chánh, phản công tái chiếm Quảng Trị. Cuộc chiến nào mà không có thảm sát, chiến tranh nào mà chẳng có nạn nhân. Nhưng hình ảnh của 1 đứa bé ngồi khóc bên xác mẹ giữa 1 chiến trường thảm khốc đầy xác thường dân như ở đại lộ kinh hoàng vẫn là 1 hình ảnh đau thương nhất mà chúng ta không thể nào quên được.
 
Vì vậy tôi cố tìm cho được câu chuyện của 1 nhân chứng đích thực, còn sống để kể lại hầu quý vị và riêng tặng cho đại tá Nguyễn Việt Hải chỉ huy trung đoàn pháo Bông Lau của quân đội Nhân dân, nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Trong tác phẩm “Mùa hè cháy” xuất bản năm 2005 tác giả đã viết thật rõ ràng là đơn vị của ông khai hỏa tập trung pháo 122 pháo 130, pháo 155 mà ông gọi là trận địa pháo cường tập trên quốc lộ số 1 vào đám ngụy quân trên đường bỏ chạy.

Ông đại tá pháo binh tác giả của tác phẩm “Mùa hè cháy” đã đích thân quan sát trong vai trò tiền sát viên để trực tiếp chỉ huy bắn.    

Bài báo ngắn ngủi và khiêm nhường hôm nay hy vọng sẽ đến tay các pháo thủ miền Bắc ngày xưa để họ nhớ lại thành quả vào ngày 1 tháng 5 trong chiến dịch Nguyễn Huệ 1972.
 
Định mệnh nào đã dành cho ông Phan văn Châu còn sống để định cư tại Hoa Kỳ với 11 người con thành đạt, hàng năm vẫn gửi tiền về giúp cho miền quê nghèo khổ xứ Nhan Biều. Bây giờ, những mộ phần tập thể của dân oan chết vì trận mưa pháo Bông Lau năm 72 đã chẳng còn dấu vết. Những đứa bé đói sữa nằm bên xác mẹ rồi cũng đã chết hết trên đại lộ kinh hoàng 37 năm về trước.
 
Nhưng mà sao tiếng khóc của em vẫn còn nghe văng vẳng đâu đây…

 
Giao Chỉ, San Jose
 

Monday, May 27, 2024

Tôi về Houston Texas dự Picnic 2024 của Không Quân Houston - Huỳnh Thông Thái

Tôi đang ở San Antonio Texas, cách Houston 200 miles. Anh KQ63D Trịnh Thành Châu ở Houston gọi rủ tôi về Houston đi Picnic. Tôi nhận lời anh Châu ngay. Hội Không Quân VNCH ở Houston, mỗi năm đều có tổ chức Picnic. Đây là lần đầu tôi đi Picnic của Không Quân Houston. Luôn tiện tôi thăm viếng chỗ rải tro cốt bà xả tôi ở Chùa Việt Nam Houston. 

Thái và vợ chồng Hiếu đang chào cờ, khai mạc Picnic.
Hiếu phi công trực thăng, thuộc phi đoàn của KQ63D Nguyễn Kim Hườn.
Vợ chồng Hiếu ở San Antonio với tôi.

Hội Không Quân Houston mỗi năm mướn nhà dù ở công viên Goerge Bush để tổ chức Picnic.

Thái và Cẩn.
Cẩn là bồ tèo của tôi từ Việt Nam trước 1975. Cẩn bay phi cơ vận tải thuộc phi đoàn VIP 314.

Phật Bà Chùa Việt Nam Houston.

Chùa Việt Nam Houston.

Tôi đang cúng Phật Bà.
Sau lưng tượng Phật Bà là nơi Hoà Thượng Viện Chủ rải tro cốt bà xà tôi.
Click Vào Đây - Nếu ai muốn xem lễ rải tro cốt.

Tôi đứng chỗ rải tro cốt bà xả tôi. 

Tôi cắm nhang cúng bà xả tôi.

KQ63D Trịnh Thành Châu thăm viếng chỗ rải tro cốt bà xả tôi.
Về Houston lần nầy, tôi ở nhà Châu.

Từ trái: Chị Thuyên (Hường). chị Hải, chị Triết, chị Đức.
Sáng Thứ Bảy tôi lái xe về Houston, tôi mời anh chị KQ63D đi ăn trưa ở nhà hàng, gặp mặt cho vui. Đúng ra tôi mời ăn cơm chiều, nhưng có vài anh em muốn ăn trưa, vì già rồi, không dám lái xe ban đêm. 
Riêng anh chị KQ62C Nguyễn Đạm Thuyên là khách đặc biệt của tôi. Chị Thuyên là bồ tèo của bà xả tôi từ thời trung học Bùi Thị Xuân Đà Lạt. 
Ăn trưa xong, tôi về nhà anh Châu ngũ một đêm, trưa hôm sau, chúng tôi dự Picnic, rồi từ Picnic tôi lái xe vế lại San Antonio. Ăn Picnic no, tôi lái xe về San Antonio, buồn ngũ thấu trời đất! 

Từ trái: KQ63D Hải, KQ63D Oanh, KQ62C Thuyên.

Từ trái: Thái, Hải, Oanh, Thuyên.

Từ trái: Châu, Thái, Hải, Oanh, Thuyên.

Từ trái: KQ63D Đức, KQ63D Diêu, Châu, Thái.

Từ trái: anh chị Đức, chị Triết (anh Triết mới mất), Thái, Thuyên, Hải, Diêu, chị Hải, chị Thuyên.
./.

  

Thursday, May 23, 2024

Việt Nam Tôi Đâu - Đan Nguyên

 Click Vào Đây - Nhạc phẩm Việt Nam Tôi Đâu/Ca sĩ Đan Nguyên

Saturday, May 18, 2024

Lỡ Hẹn Với Dòng Lam - Hoàng Thu Hà

Click Vào Đây - Nhạc phẩm Lỡ Hẹn Với Dòng Lam/Ca sĩ Hoàng Thu Hà 

Tuesday, May 14, 2024

Xuân Quê - Lê Chiều Giang


Lê Chiều Giang: Xuân Quê

Chợ quê.

Từ California khi trở lại thăm Saigon trong một dịp tết, điều thú vị nhất là tôi được một mình rong ruổi trên những chuyến xe bus, tôi đi khắp Saigon, Chợ Lớn, Phú Lâm. Chẳng cần biết trạm sẽ dừng nơi đâu, tôi đi hết đường hết sá, ngắm nhìn mọi thứ xe lớn xe nhỏ, phố bé xíu hay đường rộng thênh thang. Và để tôi thấy hết mọi người, cùng nhìn luôn mọi thứ…

Hôm nay tôi cũng bước đại xuống một trạm dừng, chẳng cần biết tên gọi. Loanh quanh rồi tôi định ngồi ăn trưa ở lề đường nào đó. Nắng và bụi sẽ là gia vị cho những dĩa cơm đường chợ, ly nước mía sẽ làm dịu bớt ồn ào của những tiếng còi xe không bao giờ dứt, khiến thiên hạ chỉ muốn điên đầu. Saigon, những ngày giáp tết, mọi sự vội vàng như đã được nhân lên qua đủ thứ màu trang trí nóng nảy, kiểu xanh vàng và tím đỏ.

Em mời tôi mua vé số, tôi mời em ngồi cùng với bữa ăn trưa. Khi chủ quán đặt lên chiếc bàn nhựa bữa ăn lề đường thịnh soạn, tôi đã chẳng nhìn thấy chút hân hoan nào trên gương mặt em. Chắc em còn bận tâm, sốt ruột với tập vé số chưa kịp bán hết. 

Nắng chiều gió sớm đã làm tóc em cháy khô với da mặt sần sượng. Tôi chưa hỏi tên, nhưng trên cánh tay trần tôi thấy khắc chữ Hoang, còn có vẽ thêm cả một lưỡi dao vụng về xấu xí. Hoang hay Hoàng? Em thích xăm nhưng chắc không tiền nên tự vẽ, viết ra bằng mực thường, rất đậm. Giang hồ, bụi đời hay chỉ xăm mình nhằm dọa hù thiên hạ và tiện thể, để em tự vệ trước những hung dữ ghê gớm của đời? Tôi lặng lẽ nhìn em ăn uống vội vàng, có vẻ gì như em chỉ rình rình tẩu thoát khỏi nơi đây.

Sự im lặng của em với nét mặt rất ngầu, như mời gọi trí tò mò của tôi về đời sống chẳng biết gọi là gì của những gương mặt chợt già trước tuổi, những đứa trẻ bị quăng ra đời một cách ngang xương, đầy bất nhẫn.

Còn nguyên buổi chiều dài không biết đi đâu, tôi đề nghị theo em đi bán vé số. Tôi muốn mình hiểu ra thế nào là lang thang, là vất vả nhọc nhằn mà rất nhiều người như em đã từng bươn chải. Ngay lập tức em từ chối, vì sợ đi với tôi thì sẽ chẳng ai mua. “Sự thảm thương”. Món trang sức thời thượng không thể thiếu của đời sống trẻ thơ, em cần phải đeo mang nó một mình, và phải chỉ một mình em thôi.

Em đã chào tôi và bỏ đi rồi, nhưng chợt quay lại hẹn 5 giờ chiều em sẽ gặp lại tôi nơi đây.

Thú vị với lời hẹn của em, nhưng tôi tự hỏi, gặp lại em rồi tôi và em sẽ đi đâu, làm gì? Mời thêm bữa ăn tối thì chắc cũng lại chán và nhàn nhạt như trưa nay thôi. 

Mới 2 giờ chiều, chẳng biết đi đâu, tôi ngồi luôn tại chỗ, đợi em mà tôi uống hết những ly cafe, nước mía, sữa đậu nành, nước dừa và thêm cả rau má…

Em trễ khi trở lại, cười cười với vẻ mặt ít gượng gạo hơn. Em hỏi tôi có muốn theo về nhà Ngoại không?

Chẳng cần biết em mời tôi về đâu, nhưng nghe chữ “Ngoại”, tôi tưởng tượng ngay ra sự hiền lành, những chân chất dịu dàng của một tình thương yêu, đằm thắm. Từ nơi xa xôi, tôi một mình trở lại quê nhà, “Ngoại” biết đâu sẽ là người cho tôi tìm ra chút thú vị, những ngọt ngào của đôi ba ngày tết mà đã lâu lắm rồi tôi như đã lãng quên.

Bến xe miền Tây chiều 29 tết. Tôi và em đã vô cùng vất vả, phải mua chợ đen mới có trên tay 2 tấm vé đi chuyến xe đò cuối cùng về Bến Tre. 

Em rủ tôi về nhà em chơi tết mà đơn giản như em mời tôi mua mấy tấm vé số. Tôi theo em đi Bến Tre cũng dễ dàng như hăng hái chạy theo những chuyến xe bus khắp Saigon, Chợ Lớn, Phú Lâm.

***

Nhà Ngoại cách con lộ có bến xe chừng cây số. Đã 10 giờ đêm, dưới bóng mờ tối tăm mà em bước nhanh, bước rành rẽ qua từng bờ đê, thước đất.

 “Ngoại” nói vọng ra sân, khi em múc nước vã lên mặt: “Dzìa với ai đó bây?”

Tôi khom lưng theo em lần mò bước vô nhà, mái lá rũ xuống vách đất như một che chắn an toàn, tôi hít hà mùi ngai ngái ẩm của lá ướt. Tôi tự giới thiệu mình vì thiệt ra em có biết tôi là ai đâu? Chẳng nhìn rõ mặt nhau, nhưng qua giọng nói tôi đoán chắc bà là người nhân hậu, dễ mến. 

Tôi tự nhiên, Ngoại đơn sơ và em hiếu khách. Chúng tôi ngồi quanh mâm cơm trễ tràng dưới ngọn đèn điện chỉ sáng hơn bóng tối một chút.

Sáng 30 tết, tôi theo Ngoại ra vườn sau nhà cắt hết những buồng chuối ươm ươm chín, mấy trái đu đủ bóng vàng và cột chân con gà duy nhất bỏ vô chiếc giỏ lát cũ.

Chúng tôi cùng với mươi người quanh khu xóm của Ngoại bày hàng ra bán trong buổi chợ cuối năm. 

Chợ không có mái che. Mọi thứ đều được đặt trên những chiếc sạp siêu vẹo, chỏng chơ, ngang dọc không hàng lối. Những rau xanh, ớt tỏi hành ngò, rổ cà chua thắm đỏ hay những trái thơm mập mạp chưa kịp chín. Còn có cả nến và nhang đèn làm cho chợ thoáng một chút hương thơm. Chỉ có hàng thịt là lúc nào cũng có khách hàng vây quanh. Ồn ào nhất chắc là con heo bị trói, nằm bất mãn khi ủn ỉn, lúc la làng bên bầy vịt gà trong lồng đang chen lấn, đập vẫy xôn xao. 

Chợ còn được góp thêm một giàn dây chằng chéo, vắt treo những bộ quần áo mới, xanh, đỏ, trắng, vàng. Màu sắc trông đẹp như cờ quạt reo vui, đang phất phơ bay đùa trong gió. 

Tôi thấy yêu mến những lời gọi vói hỏi han, những câu nói khơi khơi bông đùa quanh chợ. Những kỳ kèo mắc rẻ, đôi khi còn ráng lườm nguýt, với chê bai…Vài em nhỏ sốt ruột đứng chờ Mẹ mau bán hết hàng, nũng nịu vòi vĩnh đòi mua quần áo mới. Những líu lo chân sáo, thêm đôi mắt sáng ngời với ướm ướm đo đo, khen đẹp hoặc chê rộng chật, không vừa…

Cái óng ả của buổi chợ cuối năm như lấn át hết những âu lo, những vội vã, dù ai cũng chỉ mong bán hàng xong còn chạy vội về nhà, sửa soạn mâm cơm đón Ông Bà.

Ngoại vui mừng vì chuối cúng, đu đủ và cả con gà đẹp mịn màng đã bán xong. Tôi không theo Ngoại về, tôi nấn ná trong khu chợ chẳng còn lại một ai, ngó nhìn cái hoang sơ, cái hắt hiu của buổi chợ tàn.

Không xa khu chợ nhỏ là bến đò lưa thưa. Băng qua con đường đất với những dấu chân in, nhưng không còn đò và cũng chẳng thấy bóng ai. Duy nhất trong chòi lá, một người đang loay hoay dọn dẹp ghế bàn bên bếp lửa còn nghi ngút khói. Ông chào mời tôi với giọng Tàu lơ lớ “Xây chừng?” và cũng chẳng cần đợi tôi nói câu gì, chiếc vợt đã được Ông nhanh nhẹn bỏ thêm cafe, nhúng, nấu trong chiếc bình đen màu khói bếp. “Xây chừng?”. Ôi, cách gọi của Cafe năm cũ, những quán xá đã mất tăm theo cùng với Sài Gòn mưa nắng, ngày xưa.

Tôi nhớ khi còn nhỏ, lúc vừa biết cột tóc đuôi gà, những buổi sáng tinh sương ngày Chủ nhật, tôi được Ba chở trên chiếc xe đạp có chiếc chuông leng keng mà tôi vui tay hay bấm cho điếc tai, cho inh ỏi. Ba cho tôi theo ra Cafe Năm Dưỡng, quán gần khu chợ Bàn Cờ. Tôi chỉ được đứng chầu rìa, dựa lưng bên chiếc xe đạp, giữ xe và đợi Ba ngồi quán. Đứng chờ Ba mà mắt tôi lim dim hít hà hương cafe thơm ngát, có khi hết chỗ, Ba và nhiều khách phải ngồi chồm hổm, ngồi tràn lan ra cả lề đường. Khói thuốc bay mờ mịt, làm mắt tôi cay, nhưng lòng tôi reo vui với hoạt cảnh hay hay của những gương mặt quen thuộc tôi thấy hàng tuần…

Chiều nay, tôi đang nghẹn ngào với ly cafe bí tất đầu tiên trong đời tại một bến sông xa lạ. Ly xây chừng mà tôi nghe thơm suốt cả tuổi ấu thơ. Tôi nhâm nhi như để dành từng giọt cafe nhỏ, lặng lẽ nhìn dòng nước đưa đẩy những cánh lục bình trôi, xô dạt dưới ánh nắng vàng vọt của buổi chiều 30 tết. Nắng bay bay vật vờ theo gió xuân, quạt trên những lá dừa cao vút, lao xao như một lời chào chia tay năm cũ. 

***

Ngoại mặc áo bà ba vẫn còn nguyên nếp xếp, chiếc áo mà chắc chỉ để dành cho những ngày lễ lộc. Tôi hít hà mùi thơm băng phiến, theo Ngoại đi Chùa trong nắng sớm ngày mới của một đầu năm. Tôi và em khi rón rén, lúc vội vàng băng qua những đường nhỏ dọc theo con lộ chính hướng về nơi có ngôi chùa hoang liêu, cũ kỹ.

Nhìn nền đất đen bóng tôi cảm nhận ngay ra cái mát lạnh của đôi bàn chân không, chẳng ngại ngùng, tôi đi chân trần theo Ngoại bước vô Chánh điện. Nhang khói như làm ấm lại khung cảnh âm u, chỉ có chúng tôi, vị sư, mấy chú tiểu, và thêm vài ba thiên hạ. 

Tiếng mõ và lời kinh…Tôi đứng lặng lẽ nghe và dù không hiểu, câu kinh vẫn thoát ra sự thư thái an bình. Chúng tôi quỳ rất lâu khấn bái chờ cho đến giờ Ngọ, chờ khi tiếng chuông ngân. Chuông chùa, tiếng chuông dù âm u hay thẩm sâu hun hút, vẫn luôn là âm vang của sự an nhiên và niềm hy vọng.

Em hỏi tôi đã nguyện cầu gì? Tôi nói đùa: mong sang năm về lại Bến Tre thăm em và thăm Ngoại.

Thoáng chút ngại ngần ấp úng, nhưng rất thong thả, em nói với tôi về điều mơ ước. Về những gì em đã chăm chú nguyện cầu khi nghe tiếng chuông chùa đầu năm. Em kể với tôi, suốt mấy năm nay, lang thang bờ bụi trên Saigon, bán vé số chỉ là chuyện phụ. Chuyện chính yếu là vì “Mẹ”.

Em nhất quyết phải tìm cho ra Mẹ, tìm để được thở với hơi ấm trong vòng tay Mẹ, người bỗng dưng bỏ em ra đi, đã 4 năm rồi.

Tôi ngạc nhiên, tôi giật mình, nhưng không dám nói thêm điều gì, dù sáng qua tôi đã suýt tò mò hỏi thăm Ngoại về Ba Mẹ em… Suốt hai ngày dài bên em, giờ tôi mới hiểu em hơn một chút. Chỉ một chút thôi, nhưng đã cho tôi cái nhìn về em rất khác.

Hôm nay đi lễ chùa, em phải mặc chiếc áo dài tay. Em muốn che giấu đi những nét vẽ rằn ri, bặm trợn của một đứa trẻ ráng làm cho ra vẻ bụi đời.

Nhưng này em nhỏ. 

Dù lát nữa đây em có nhờ tôi vẽ lên cánh tay xanh xao ốm yếu của em, bên cạnh lưỡi dao xấu xí đó thêm một “Bàn tay máu”, thì tôi cũng vẫn ôm em, khóc cùng em, hôn lên mái tóc khét mùi nắng mưa và sẽ đi với em khắp Sài Gòn, Phú Lâm, Chợ Lớn.

Tôi và em sẽ đi theo tiếng vọng của chuông ngân, tiếng chuông vang xa như một lời cầu khẩn. Tiếng gọi réo rắt của em và tôi sẽ vang vọng, sẽ bay cao theo với gió xa vời tìm tới bên Mẹ, dù Mẹ em bây giờ có ở mãi tận nơi đâu…

Lê Chiều Giang
 

Thursday, May 9, 2024

Huế Ơi - Vân Khánh

 Click Vào Đây - Huế Ơi thơ của Trần Quốc Bảo/Ca sĩ Vân Khánh 

Sunday, May 5, 2024

CHỊ XINH - Ngọc Thảo


CHỊ XINH 
- Ngọc Thảo -


 Xinh- là tên chị. Nhưng tên và người vẫn thường chẳng giống nhau. Với chị lại càng không, thậm chí là trái ngược. Mặt chị méo mó, vênh vẩu như cái bánh đa mà mẹ chị vẫn bán cho người ta. Hai con mắt bé tí, chắc chỉ bằng hạt lạc lại còn bên to bên nhỏ nằm đờ đẫn trên cái sống mũi sần sùi những mụn là mụn. Hàm răng chìa ra, theo cái cách mà mấy thằng thanh niên xóm bên thường hay trêu chọc mỗi bận thấy bóng dáng của chị thì hàm răng ấy có thể dùng để ăn đu đủ mà chẳng cần thìa.

Chị Xinh không có lấy một chàng trai nào để mắt tới. Đến cả anh Thọt cuối xóm, một bên chân lê lê cũng chẳng bao giờ thèm hỏi chị một câu dẫu có gặp nhau. Chị Xinh ế chồng, từ bận có em dâu về nhà thêm chật chội, nên gia đình làm cho chị một gian nhà bé tí ở mảnh ruộng cuối làng.
Chẳng có gì đáng nói đâu nếu không có một ngày, người ta phát hiện ra chị có thai. Một người nào đó nhìn thấy chị dỡ ngói non ở góc bếp nhà hàng xóm để mà nhai rau ráu như người ta ăn thứ gì đó ngon lắm. Ôi chao, chị Xinh bỗng chốc trở thành tâm điểm của mọi câu chuyện người ta tám với nhau khắp nơi trong làng. Mẹ chị xấu hổ quá. Ông bà ra tận nơi bắt chị bỏ cái thai đi nhưng chị không đồng ý. Chị khóc, quỳ xuống xin bố mẹ cho chị được sinh con ra nhưng ông bà vẫn kiên quyết không đồng ý. Thế là từ mặt chị. Thế là chị Xinh chỉ có một mình, dù nhà chị có khối người vẫn chỉ ở giữa cái làng thôi.
Nhiều người cứ đoán già đoán non mãi xem chị có bầu với ai nhưng tuyệt không ai đoán được. Người thì đoán đó là lão quản thợ mà chị vẫn đi làm phụ hồ cho lão. Nhưng có người phản bác ngay “lão quản thợ đẹp trai, lại có tiền, đời nào ngó ngàng đến chị xấu thế kia”. Người lại đoán là chị đi xin đứa bé ở đâu cho nay mai có người đỡ đần lúc về già. Nhưng chẳng ai biết chị xin ai vì chị xấu thế, có ai lại nhận lời.
Thực ra thì chị Xinh cũng không biết ai là bố đứa bé. Người đàn ông ấy đến vào một cơn mưa tối tăm trời đất. Khi tất cả mọi người đang chúi trong nhà thì nhà chị có ai đó đang ở bên ngoài. Lấy hết can đảm, vừa kịp mở cửa ra thì một thân người lực lưỡng đổ ập xuống trước mặt chị. Quên cả hoảng hốt, chị vội vã kéo người đàn ông lạ hoắc ướt như chuột vào trong nhà. Anh ta mê man như không biết gì kể cả lúc chị cố kéo bộ quần áo ướt ra khỏi người anh rồi lau người cho anh bằng nước gừng ấm pha loãng. Đó là tất cả những gì chị biết. Cơn mưa tạnh dần cũng là lúc trời trở về khuya. Trong căn nhà lụp xụp, bộ quần áo đã hơ khô lửa được đặt bên cạnh người đàn ông đang nằm trên giường. Chị Xinh thì nép mình ở góc nhà, ngồi nhìn ra màn trời tối đen, hai tay cứ nắm chặt lấy nhau, hai bên má nóng ran. Dường như chị cảm thấy khó chịu quá, khó chịu đến mức vã mồ hôi giữa một đêm mát mẻ như thế. Chị lần mò ra cái đầu hồi nhà, có tấm liếp hờ che bên ngoài xả nước, dội ướt hết cả người. Có tiếng loạch xoạch bên nhà, hình như là anh ta đã tỉnh lại, chị Xinh như đứng chết trân đằng sau tấm liếp. Hình như có người mở cửa hồi nhà, chị Xinh luống cuống chân tay ngã dúi dụi khi vội mặc quần áo. Nhưng chị không ngã xuống đất, mà ngã vào một cánh tay rắn rỏi. Và rồi như có lửa đốt, khi những khát khao dồn nén trong cơ thể người phụ nữ quá lứa sôi như sóng cuộn, chị liều lĩnh ôm lấy người đàn ông lạ mặt mà thì thào hổn hển
- Xin anh hãy cho tôi một đứa con.
Sau giây phút trăn trối, dường như kịp định hình lại câu nói của chị, họ quấn vào nhau.
Từ hôm ấy, chị Xinh chẳng gặp lại anh ta lần nào. Chị chỉ nhớ bên trên cặp lông mày bên mắt trái của anh ta có một cái sẹo khá dài. Đấy là ấn tượng duy nhất còn lại trong chị. Cái tin chị có bầu làm cho nhiều người phụ nữ đoán già đoán non khi họ không kiểm soát được những cuộc tình vụng trộm của chồng mình. Có người còn mò đến căn nhà lụp xụp của chị để mà thóc mách, dò xét. Có lần, chị vừa đi về đến nhà đã có hai mẹ con nhà ở xóm trên đứng chờ sẵn ở cổng. Thằng con nhẽ lớn bằng mẹ, hùng hổ xông đến định túm lấy chị mà đánh. Mấy người trước đến thì chị Xinh chỉ im lặng, nhưng lần này, khi thằng ranh con định giơ chân đạp vào chị thì chị đã né người, nhìn thẳng vào hai mẹ con họ mà dõng dạc
- Nếu hai người còn cố tình, tôi sẽ báo công an. Tôi không liên quan đến mấy người và cũng không biết con lợn của nhà mấy người là thằng nào. Đừng nghĩ bắt nạt nó quen.
Thế mà có tác dụng thật. Chỉ đến khi hai người bỏ đi rồi, chị Xinh mới ngồi thụp xuống khóc như mưa.
Ngày chị trở dạ, là một đêm không trăng không sao. Nhờ có bà hàng xóm đi qua nghe tiếng chị kêu khóc, không cầm lòng được đã gọi bà đỡ đến làm phước. Thằng cu khỏe mạnh ra đời trong những giọt nước mắt vui mừng lẫn tủi thân của chị.
Cái tin chị sinh con trai loan ra khắp làng. Lại những tiếng ì xèo nổi lên chỗ này, chỗ kia. Đôi ba người hiếu kỳ ngó mặt thằng bé khi nó được đôi tháng tuổi chị bế ra ngoài sân. Có ai đó, thỉnh thoảng thương tình, lừa lúc chị đi vắng để vào cửa nhà ít sữa trẻ con, thức ăn và ít đồ linh tinh khác. Nhưng chị chịu, không đoán ra được ai. Cũng kệ.
Thằng bé ngày một lớn lên. Cái tên Bảo Đức là chị Xinh đặt cho con. Lâu dần giữa gia đình và mẹ con chị không còn lạnh lùng như trước. Mẹ chị xót con nên thi thoảng vẫn chạy qua thăm cháu. Người ta cũng quên chuyện chị không chồng mà chửa nên ông bà cũng không còn phải nghĩ ngợi nhiều. Máu thịt vẫn là máu thịt. Chỉ có thằng bé mỗi ngày một lớn, mỗi ngày một nhanh trí. Thoắt cái Bảo Đức đi học lớp 10. Trường mới xa nhà hơn, nó phải đạp xe đạp mất mấy cây số. Ngày đầu tiên đến lớp, cô giáo chủ nhiệm điểm danh học sinh. Ngước cặp kính lên, cô gọi
- Lê Bảo Đức – mẹ là Lê Thị Xinh
Có tiếng xì xào dưới lớp
- Kìa, hai mẹ con cùng họ kìa chúng mày ơi
- Các em trật tự. Em Đức có đây không?
- Thưa cô có ạ.
- Nhà em ở bên làng Đông à?
- Vâng ạ.- Đức ngoan ngoãn trả lời, không để ý đến những ánh mắt của lũ bạn nhìn cậu tò mò.
Tiếng trống tan học vừa điểm, Đức dắt xe đạp ra cổng, đang định leo lên xe thì một chiếc xe đua trờ tới. Hai đứa học cùng lớp với Đức quay lại gào lên
- Đồ con hoang!
Giật mình, Đức nhìn theo thì chỉ thấy chiếc xe lao đi. Mặt Đức đỏ bừng. Còn mấy đứa thì xì xào chỉ trỏ. Đạp xe về Đức mong mãi mẹ nhưng lại không thấy. Tận đến quá trưa, chị Xinh mới lò dò đạp chiếc xe cọc cạch đến nhà
- Mẹ, bố con đâu?
Chị Xinh nghe con hỏi thì loạng choạng dựng xe hấp tấp hỏi lại
- Con…con vừa nói gì cơ?
- Con hỏi mẹ bố con đâu?
- Vào ăn cơm đi con.
Chị trốn tránh câu trả lời của thằng bé.
- Nếu mẹ không nói cho con biết thì con sẽ không đi học nữa?
Chị Xinh buông bát cơm, trân trối nhìn thằng bé. Nó còn quá nhỏ để hiểu được hết mọi chuyện nhưng biết làm thế nào với nó đây.
Cô giáo Mai cũng mới cùng gia đình chuyển đến đây vào đầu năm học, sau khi bố chồng cô qua đời. Mẹ chồng cô mất từ trước khi cô về đây làm dâu. Trước cổng, người ta có thể nhìn thấy rất nhiều cây cảnh và một giàn hoa giấy rực rỡ, khiến ai cũng phải ngó nhìn
- Có ai ở nhà không?- Có tiếng người gọi
- Có đấy ạ. Ai hỏi gì thế ạ?
Cô Mai nhìn người phụ nữ xấu xí đứng trước mặt mình có chút tò mò
- Chị là?
- Thưa cô, tôi là phụ huynh em Bảo Đức. Tôi muốn nói chuyện với cô.
Cuộc nói chuyện của chị Xinh và cô Mai kéo dài rất lâu .Vừa nghe chị nói, cô Mai vừa chấm nước mắt. Hình như cô khóc. Chị Xinh ngạc nhiên nhìn cô giáo, không hiểu vì lí do gì mà cô mau nước mắt thế
- Chị…chị còn may mắn hơn tôi. Chị còn có thằng bé. Tôi …tôi 15 năm nay, không….không thể sinh con.
Hai người đàn bà lặng đi trong bóng chiều nhập nhoạng lan trên giàn hoa giấy. Dưới cái sân rộng rãi nhà cô Mai, một người phụ nữ xinh đẹp, khuôn mặt buồn rầu và một người phụ nữ xấu xí, hàm răng tưởng như cười, mà lại đang lau nước mắt.
Thằng Đức đến trường sau một đêm hai mẹ con không ngủ. Nó cứ ngồi trân trân ở cái bàn học cạnh giường mẹ đến lúc thiếp đi. Nhưng lúc nó tỉnh dậy, nó vội vã sắp sách vở đi học. Trong đầu còn văng vẳng lời mẹ nó “Mẹ đã hi sinh để có được con. Dù con có thiệt thòi với các bạn, nhưng con phải nhớ, mình được sinh ra trên đời này là sự may mắn của ông trời ban cho mẹ. Con phải học. Nếu chỉ vì bị bạn bè nói thế mà con nghỉ học, thì chả nhẽ, con trai mẹ lại kém cỏi thế?”
Một thằng bé luôn dẫn đầu lớp, chưa bao giờ bị bắt nạt suốt những năm cấp 1 cấp 2 chính là nó. Nó nhìn bát xôi sáng mẹ để trên bàn ăn, rồi bốc một miếng tướng vào miệng, vội vã đến trường.
- Ê, đồ con hoang!- Hai thằng hôm qua tiếp tục chạy đến cạnh nó gào toáng lên
- Các cậu bị điên à? Tớ sẽ mách cô giáo. Các cậu có siêu hãy học giỏi như thằng Đức xem sao.- Con bé lớp trưởng chạy từ đâu đến nói toáng lên.
- Nó có gì là giỏi?
- Học đi rồi khác biết.- lớp trưởng lại nói đầy quả quyết.
Đức nhìn hai thằng vừa gào lên, rồi cậu lại gần chúng nó, ánh mắt Đức giống như hình viên đạn, khiến hai thằng kia hơi sợ
- Tao không thích đánh nhau. Chúng mày có giỏi thì làm việc khác hơn đi. Năm nay đứa nào giỏi toán nhất lớp tao gọi bằng anh. Tao không có bố, nhưng tao tự hào là mẹ đã đẻ ra tao, chúng mày chẳng cần phải gào lên như thế. Có giỏi thì chứng minh chúng mày không phải con hoang mà giỏi hơn tao đi.
Hai thằng kia đứng trân trân nhìn theo Đức. Miệng á khẩu không nói được câu gì.
Học kì 1 kết thúc. Cái tên Bảo Đức được vinh danh trên sân khấu nhà trường. Cô Mai hạnh phúc nhìn thằng nhỏ cao ráo trắng trẻo lên bục nhận phần thưởng. Một thằng bé mạnh mẽ. Cô mừng thay cho chị Xinh. Nhưng rồi lại chợt nghĩ đến mình, mắt cô rơm rớm. Nếu như
- Cô! Con cảm ơn cô. Có được như thế này là nhờ cô đã giúp đỡ con.
Đức vừa nói vừa đưa bó hoa cho cô Mai.
- Đức! Con. Con là niềm tự hào của ta.
Thế mà nhanh thật. Đã là 15 năm.
Bác sĩ Bảo Đức là bác sĩ khoa ngoại giỏi của viện Tỉnh. Đang ngồi trong phòng làm việc, anh chợt nghe điện thoại của quen thuộc của cô giáo Mai.
- Đức..chú đang trên đường đến bệnh viện. Chú bị tai nạn.
Tiếng còi cứu thương réo lên, Đức nhanh chóng chạy đến phòng cấp cứu
- Mất máu nhiều quá. Phải truyền máu gấp.
Chồng cô Mai được lấy máu xét nghiệm . Nhóm máu của chú lại không còn. Bệnh viện phải tìm nguồn máu. Bác sĩ Đức yêu cầu lấy máu của mình để truyền cho bệnh nhân vì máu của anh cùng nhóm với của người bệnh.
Cuối cùng thì nguy hiểm cũng qua. Đức nhìn cô Mai lặng lẽ ngồi bón cháo cho chồng cô mà thương quá đỗi. Giá như cô có một đứa con thì tốt biết mấy. Đức được như hôm nay, cũng là nhờ cô đã dành cho anh nhiều sự quan tâm, hơn cả tình cảm của một cô giáo. Có lẽ, cô coi anh như con ruột của mình. Chồng cô cũng thật đáng ngưỡng mộ. Dù cô Mai chẳng sinh được con, chú vẫn một lòng thủy chung với cô. Có , lẽ, đó là điều may mắn của cô chăng .Anh trầm ngâm nhìn hai người lớn, lòng không khỏi buồn.
- Đức à. Mẹ đang ở ngoài cửa, mẹ đến thăm vợ chồng cô Mai.
Vội vã đỡ bớt túi xách lỉnh kỉnh của bà Xinh, Đức đưa bà vào phòng bệnh. Nhưng đi đến cửa phòng, thì bà Xinh chợt khựng lại đánh rơi cả cái nón đang cầm trên tay. Đức trân trân nhìn mẹ.
- Mẹ! Mẹ sao thế?
Cô Mai giật mình quay lại, cả chồng cô cũng thảng thốt khi nhìn thấy bà Xinh. Trên khuôn mặt chú ấy vết sẹo dài cứ giật giật liên tục.
- Hai người…hai người…
Đêm bệnh viện lặng lẽ, Đức không tài nào ngủ được. Anh chạy ra hành lang định đến phòng chồng cô Mai để xem tình hình thế nào. Chồng cô ở bệnh viện cũng đã gần một tuần. Vừa kịp bước chân đến gần cửa phòng, thì có tiếng chuông điện thoại
- Mẹ à? Sao mẹ gọi cho con muộn thế?
- Đức này- Tiếng bà Xinh thì thâm. Có một chuyện mẹ muốn nói với con, mẹ nhất định phải nói với con.
- Mẹ sao thế? Có gì đợi con về.
- Không, mẹ nói với cô Mai rồi, cô ấy rất vui. Con hãy nhận bố đi. Chồng cô Mai chính là bố của con. Người đàn ông được mẹ cứu chính là ông ấy. Mẹ xin lỗi con, cả mẹ và ông ấy đều không biết điều đó.
Đêm bệnh viện, vừa khiến con người ta thấy sự lo lắng khôn cùng. Lo lắng vì những sinh tử giữa ranh giới mong manh của cuộc đời. Nhưng những vì sao thì lúc nào cũng vậy, chỉ cần chúng xuất hiện, thì luôn luôn lấp lánh. Đôi khi, người ta vô tình gặp phải những khổ đau trong hạnh phúc đang diễn ra. Và một lúc nào đó, những điều bất ngờ, tốt đẹp hay xấu xa, vẫn cứ xảy đến với mỗi người.
Trước cửa phòng bệnh, cô giáo Mai đứng lặng lẽ, giọng cô rất khẽ
- Đức, bố đang đợi con đến. Cô cảm thấy cô thật may mắn khi người đó chính là con.

Ngọc Thảo