Thiếu nữ Việt Nam

Thiếu nữ Việt Nam
quá dễ thương
Showing posts sorted by date for query liệt lão đào trọng ngọc. Sort by relevance Show all posts
Showing posts sorted by date for query liệt lão đào trọng ngọc. Sort by relevance Show all posts

Thursday, December 18, 2014

Giây phút nát lòng - Liệt Lão Đào Huy Ngọc

 

Tân Sơn Nhất

Tôi thật muốn quên cái ngày đen tối đã qua, cái ngày mà cái hèn, cái nhục, cái bất ưng đã ám ảnh tôi đến mãi ngày naỵ Nhưng cứ mổi lần tháng tư đến nó lại ray rứt trong tôi, nó nhứt định làm khó tôi, kéo tôi sống lại ngày ấy, cái ngày mà phản đồ A 37 oanh kích phe mình.

Vào lúc tan việc, mọi người đều lo miếng cơm chiều lòng tôi như lửa đốt, tôi vội một mình lái xe về Tân Định thăm Mẹ tôi mang bệnh tim, sống một mình ở một căn phố thuộc khu xóm chùa.
Gặp tôi còn nguyên quân phục tác chiến, Mẹ tôi mừng mừng tủi tủi, không muốn xa tôi, cầm tay tôi nói:
– Con cắm trại triền miên, Mẹ không yên tâm. Hay để Mẹ vào TSN cho Mẹ con còn được có nhau.
Tôi vội quay mặt tránh cho Mẹ tôi khỏi nhìn thấy cái đau lòng đang nhạt nhòa mắt tôi. Tôi từ tốn thưa:
– Mẹ ! TSN là nơi chinh chiến, con để Mẹ sống ngoài khu quân sự cho được an toàn. Chiều chiều con sẽ chạy về thăm Mẹ, lúc nào tình hình bớt căng thẳng con xin rước Mẹ về gần con.
Nói xong tôi móc nguyên bì lương tháng tư tôi vừa lãnh trao hết cho Mẹ tôi để người chi dụng rồi vội cáo từ trở lại TSN.
Tôi không ngờ chính lần gặp nầy lại là lần cuối tôi thu nhận hình ảnh Mẹ tôi vào trong lòng. Tôi định đi tắm. Mới cởi được cái áo thì nghe nhiều tiếng nổ lớn phía SĐ5KQ. Nhìn lên trời, A 37 nhào lên lộn xuống. Nhìn xuống đất, vọng vào sân bay, từng cụm khói đen bốc cao. Không chút do dự tôi vội xỏ tay áo một bên, một bên còn để trần, lái vội xe vào BTLKQ.
Dọc đường mọi người tất tả chạy ra, riêng mình tôi ngược vào, súng liên thanh lớn nhỏ nổ ran. Thấy tôi ngược dòng thác người, có mấy anh em thuộc quyền xưa cũ vội chặn tôi lại:
– A 37 dội bom, VC đánh tới, mọi người thoát thân sao ông lại chạy vào. Óng ơi ! hãy quay xe ra đi.
Tôi chẳng anh hùng gì, gan dạ hơn ai, nhưng nghĩ đến trách nhiệm tôi đã lắc đầu:
– Các anh hãy chạy đi, tôi phải vào chỉ huy phòng thủ.
Nói xong tôi rồ máy phóng vào TLB. Lính Hành Dinh nghiêm chỉnh canh gác. Cổng BTL, ngựa sắt đã kéo ngang. Tôi hỏi:
– Các Tướng đâu?
– Trong Đại Sảnh. Lính gác nói vội.
Đậu xe trước tiền đình, tôi phóng xuống gặp ông Lượng vận phi bào vừa bước ra, tôi hỏi :
– Các ông ấy đâu ?
– Ở cả trong đó, ộ Lượng trả lời.
Tôi yên bụng, các Tướng Tàu bay còn đó. Thay vì vào gặp, tôi quay ra xem xét phòng thủ. Điểm quân số tôi chỉ có hơn Tiểu đội phòng vệ và ½ Tiểu đội QC. Tất cả ứng chiến trực đều vọt đi ăn chưa kịp đáo hồi đơn vị. Tôi ngao ngán nhưng vội quyết định nhanh:
– QC trách nhiệm TLB, bảo vệ Tướng lãnh. Phòng vệ ứng chiến, xử dụng vũ khí cộng đồng, chiếm lãnh cao điểm, nóc hiên Khối Hành Quân, phòng ngự mặt tiền TLB và cổng chính BTL. Số khác phòng ngự cổng sau hướng về khu có VC trong ủy ban Liên hợp 2 bên.
– Lệnh cho các anh “Tử Thủ”.
Thú thật, tôi ra lệnh để lấy tinh thần quân sĩ chứ chiến đấu gì với một lực lượng què quặt và không phương tiện truyền tin. Tất cả chỉ thị đều dung người chạy tới chạy lui như kiểu giao liên thời Du kích đánh Tây.
Thanh tra vị trí chiến đấu vừa xong, tình hình cũng vừa lắng dịu. Tôi lên trình diện TLB những toan phúc trình tình hình phòng thủ nhưng chẳng ai bận tâm! Người ngươì nhìn nhau đăm chiêu dường như trong thâm tâm mỗi người chỉ muốn buông rơi tất cả.
Ói ! Thần sắc không còn, dũng khí cũng tiêu tan, Đại Bàng đã “xệ cánh” !
Nhớ lại ngày nào, Mậu Thân đỏ lửa, hùng khí ngất trời, hiên ngang sấm sét, quét sạch cộng quân, sao nay bỗng dưng rũ liệt !
Buồn rơi nước mắt.
Tôi trông chờ một lệnh họp khẩn cấp, duyệt xét tình hình chung, lấy quyết định tối hậu: “Chiến” hay “Lui”. Chiến thì chiến ra sao ? Kamikazé ! ? Lui thì lui thế nào ? Có trật tự, tuần tự trước sau, “Không bỏ một ai” hay hỗn loạn mạnh ai nấy chuồn ! ! ?
– SĐ 5 còn nguyên C 130, C 119, C 47, Caribou, Trực thăng và cả phi đội nghênh cản F 5.
– SĐ 4 nguyên vẹn hỏa lực sẵn sàng ứng chiến

Tôi chờ lệnh. Tôi không có. Tôi trở thành anh lính chiến bộ binh trưởng đồn như ngày tôi xuất thân khóa 1 Thủ Đức bị ném về miền Tây, Đồng tháp, trông nom một đồn binh án ngữ ngã ba sông ngòi.
Tôi đã được học cầm quân một SĐ chiến đấu để rồi cuối đời lính tôi không chỉ huy được một Trung Đội. Tôi không nhận được một lệnh Hành Quân rõ rệt. Tôi đã bi bỏ quên.
Không hiểu được ý định thượng cấp, Tôi chỉ còn biết chu toàn trách vụ của tôi, Tôi lo cho thuộc cấp. Tôi ước tính tình hình và lệnh cho quân phòng thủ :
– Chia nhau thay phiên ngơi nghỉ tại vị trí chiến đấu. Bây giờ yên tĩnh nhưng co thể đêm khuya, rạng sáng Địch sẽ “Tiền pháo hậu xung” , đó là chiến thuật cố hữu của chúng, lúc ấy cần đến các anh em đủ sức ngăn địch.
Tôi chẳng phải thần thánh gì mà biết trước ý Địch. Tôi tự đặt tôi ở vị thế của Địch thì tôi sẽ làm
thế. Naỳ nhé :
– Tôi biết TSN đã nằm trong vòng pháo của tôi.
– Tôi biết TSN là ngả rút lui cuối cùng của chính phủ và cơ quan đầu não VNCH.
– Tôi biết KQ/TSN vẫn còn khả năng gây tổn thất nặng nề cho tôi.
– Tôi biết KQ đã nao núng vì đã có những phản đồ gây bất an cho các căn cứ KQ.
– Tôi phải đánh, phải thanh toán sớm. Mất TSN kể như trận chiến Quốc Cộng chấm dứt.
Saigon đã bị vây chặt. Kế hoạch lấy QK 4 trường kỳ kháng chiến không có, không thấy vùng 4 chuẩn bị. Chính trường bấy nhậy còn mải dằng co giữa cụ Hương và Big Minh, giữa sự trốn chạy trách nhiệm trước lịch sử của Tổng Thống và Quốc Hội.
Xem như thế, ấy mới chỉ phân tách sơ lược thôi, là tôi, là anh, nói chi đến VC, cũng phải ra quân dứt điểm. Cho nên việc đến đã đến. Khoảng nửa đêm về sáng rạng 29/4 Cộng quân đã pháo loạn TSN.
Tôi và một QC tùy tùng thám sát phòng thủ thì pháo cộng chớp nhoáng trên đầu. Chú QC xô tôi nằm xuống và lấy thân đè lên bảo vệ cho tôi đồng thời tâm sự:
– Giờ thứ 25 rồi, ông có sao thì đất nước cũng không còn. Nói dại ông chỉ trúng thương thôi, ai ở đó chạy chữa cho ông. Các bác sỉ đã vắng cả rồi. Óng hãy thôi thanh sát. Các anh em đã yên trong vị trí chiến đấu rồi. Óng cứ khơi khơi xổng lưng giữa mưa đạn đâu có lợi ich gì trong lúc nầy.
Mình thường tự tôn đánh giá thấp sự hiểu biết và dũng cảm của em út. Ở trường hợp khói lửa ngút ngàn, Tôi đã thấy ở họ có những suy xét hữu lý. Họ không trốn chạy, họ vẫn theo gót chân mình, họ góp ý cho quyết định của mình.
Tôi do dự rồi vỗ vai chú QC:
– Tôi cám ơn anh đã lấy thân che cho cấp chỉ huy, Tôi cũng cám ơn anh đã nghĩ cho cái an nguy của tôi. Tôi không ra tuyến phòng ngự thì ai là người nằm đó tử chiến. Sống chết có số ! Anh hãy quay lại TLB, để tôi đi.
Chú QC đã không trở về vị trí chỉ định. Chú cứ nhất định lẽo đẽo theo tôi. Pháo cộng vẫn chốc chốc nổ đều. Tôi nghĩ chẳng may chú QC trúng đạn còn tôi thì không, hẳn tôi sẽ ân hận, chỉ ví tôi mà chú ra nông nỗi , vợ con chú cũng vì thế mà thêm tang tóc, điêu linh trong khi “Đất” vẫn mất, mình vẫn cửa nát nhà tan, gia đình ly tán.
Tôi quyết định bỏ dở thanh sát tuyến phòng ngự và quay về ngồi thẫn thờ trước tiền đình TLB mặc cho pháo nổ đó đây. Pháo đã rơi vào khu nữ quân nhân và một quả rơi vào khu nhà “Môn Lù” (QC) ngang sân banh BTL ( May cho Môn Lù đã cõng vợ con biến dạng qua DAO từ mấy ngày trước). Sức nổ vang dội lồng ngực. Một miểng hỏa tiển to bằng 4 đốt ngón tay chập lại văng lóc cóc trước mặt tôi, lượm lên còn nóng rẫy. Tôi đem vào phòng Hành Quân
Chiến Cuộc báo cáo cho biết VC đang nhắm BTLKQ khai hỏa để các vị lo ẩn nấp kỹ hơn.
Tôi đã nhận được “Cái Búa”. Phải, Cái Búa ! Cụ Võ (TMT) qua hệ thống Truyền Tin nghe
được báo cáo hoảng của Phòng Thủ Căn Cứ: “Phi cơ bỏ bom” ( Họ đã nhầm lẫn phi cơ phóng pháo của mình đang phản kích bay trên vùng đúng lúc cộng pháo) nên gay gắt với tôi:
– Phi cơ bỏ bom chớ pháo kích gì.
Tôi uất nghẹn, tay còn cầm miểng hỏa tiễn, lặng lẽ quay ra. Tôi không hiểu sao lại không tin tôi, người ở Tuyến phòng ngự, đã mục kích lại có cả bằng chứng trên tay thế mà không được lắng nghe, lại tin nghe báo cáo hoảng của một anh lính nào đó.
Có lẽ đấy là vận nước đã đến hồi đốn mạt!
Hừng sáng thấy rõ mặt người, VC cũng đã ngưng pháo, tôi mới lững thững ra trước Cổng BTL quan sát tình hình thiệt hại trong đêm. Vừa bước ra ngoài “Ngựa sắt” một quả pháo ở đâu đã nhoáng nhoàng bên kia đường, khu ông Kỳ, hất rơi cả mũ tôi. Tôi vội lui vào phòng trực TLB (gần cổng chính) và nghĩ rằng đâu đây đã có “Tiền sát” Cộng quân điều chỉnh tác xạ. Tôi đã nhìn
lên lầu nước trong khu ông Kỳ thì thấy thấp thoáng bóng người . Tôi không rõ phải lính của Lê Ngoạn (Trưởng Cận Vệ Ó. Kỳ) hay một tên “lộn sòng” VC nào đó. Tôi không có phương tiện truyền tin giữa các lực lượng phòng thủ khu vực để kiểm chứng.
Tôi đã chỉ huy trong vô vọng. Tôi nghĩ tôi vô phước nhưng khi biết được cái dũng cảm chiến đấu cho đến lúc “Cá chậu chim lồng” của con Đại Điểu Phùng Ngoc Ẩn và các KQ thuộc CTCT thì tôi lại là người có diễm phước vì tôi chưa phải nếm “đòn thù” như các anh mà chỉ nếm “cái xuẩn” của bạn mình thôi.
Tôi không muốn làm “con mồi” nhử cho Cộng quân pháo bừa vào BTL, tôi lặng lẽ lui vào phòng Hành Quân Chiến Cuộc nghe thuyết trình buổi sáng. Tin tức rời rạc không gì rõ rệt (còn ai đâu báo cáo, QĐ 3 đã gẫy súng !) Đang ngồi âu lo cho số phần Cộng Hoà sắp dứt thì được điện thoại của ông Hiệp trố (ANKQ) hỏi bây giờ làm sao? Tôi mạn phép Tư Lệnh khuyên nhỏ:
– Hãy thu xếp vào ngay BTL. Có thể rút bất kỳ lúc nào.
Nói xong tôi cắt điện đàm. Ngồi kế tôi, ông Hà Dương Hoán hỏi nhỏ:
– Moa chạy về đón Bà cụ liệu có kịp không?
Tôi trả lời:
-Có thể không kịp. Tình thế quá khẩn trương rồi. Còn, mất chỗ nầy chỉ trong nội sáng nay thôi.
Nghe thế, Hoán rời BTL. Tôi không rõ ông ấy đi đâu, làm gì. Sau nầy tôi có tin ông ấy và ông Hiệp đã có mặt tại Hoa Kỳ mà không phải qua các đợt “Cải Tạo”.
Khoảng 8 rưỡi 9 giờ, ông Tiên vào TLB gặp Tư Lênh , lo âu hiện rõ, sau đó bỏ đi. Ít lâu sau, ông Kỳ lái Riviera đậu trước tiền đình TLB, mở cửa xe bước lên Đại Sảnh, nét mặt cương nghị, dăm
cọng tóc lòa xòa trước trán không dấu được phong trần thâu đêm trực thăng dạ thám, điều không, chỉ điểm mục tiêu cho Hỏa Long khóa mõmĐại pháo Cộng quân.
Óng đã thảo luận riêng với “Cửu Long” (TLKQ), lúc quay ra đã hỏi tôi:
– Ai chỉ huy phòng thủ ở đây?
Tôi nhìn xững trả lời :
– Tôi, sao ạ ?
Nghe xong ông hạ thấp giọng:
– Có tin được không ?
– Tin được cái gì cơ ? Tôi phân vân hỏi lại.
– Lính của anh đó. Óng Kỳ nói rõ hơn.
Lúc nầy tôi đã hiểu cái lo lắng của ông, tôi vội trấn an:
– Óng yên tâm. Có điều tôi không đoan chắc, nếu khi rút đi không cho họ rút theo thì phản ứng của họ tôi không lường được.
Óng Kỳ gật đầu ra lấy trực thăng bay đi, để lại Riviera nằm tại BTL.
Chuông điện thoại reo vang, Cửu Long bốc nghe và đáp:
– Khổ lắm, cả đêm đến giờ . . . !
Tôi không biết Cửu Long nói chuyện với ai. Điều chắc chắn không phải Tổng Tham Mưu Trưởng Liên Quân vì vị nầy đã xa rời quân ngũ mấy ngày nay rồi, cũng không phải Tổng Thống hay Thủ Tướng hay Bộ Trưởng Quốc Phòng vì các vị nầy còn đang bận nghi thức trao quyền cho Big Minh lập chính phủ nói chuyện với “Mấy người anh em bên kia”. Đây hẳn là bạn bè trang lứa thăm hỏi
tình hình.
Chốc lát sau, cựu Tham Mưu Trưởng Liên Quân N.V.Mạnh cùng với cựu Tư Lệnh QĐ 3, Trưởng Ủy Ban Quân Sự Liên Hợp 2 bên D.Q. Đống tất tả vào gặp Cửu Long , kế đó 2 vị và Cửu Long ra đi, gặp tôi còn vững tay súng trong y phục phi hành ngoài them áo giáp. Tôi đưa tay chào nghiêm túc, quân cách, trước Tiền đình TLB.
Thấy tôi Cửu Long chào trả, ngập ngừng chân bước, ái ngại nhìn tôi và đột nhiên dứt khoát:
– Toa ở lại đi sau với Lành nghe!
Nói xong Cửu Long vội bước mau ra xe đã chờ sẵn, mặt buồn rười rượi. Tôi khẽ gật đầu ngụ ý chấp nhận số phần ở lại. Tôi suy nghĩ mông lung dẫu sao lời nói cuối cùng của vị Tư lệnh còn ngập ân tình với tôi, còn nghĩ đến và mong tôi cũng ra đi được cùng với người chỉ huy đoạn
cuối.
Tôi với Cửu Long là bạn học thời Trung học, rồi Cao đẳng Công chánh và sau đó cùng động viên nhập trường Sĩ Quan Trừ Bị khóa I Thủ Đức. Ra trường mỗi đứa một nơi nhưng rồi tôi với Cửu Long lại có duyên cùng một quân chủng. Cho nên vào cuối đời binh nghiệp trước cảnh phân ly, sống thác chưa lường, Cửu Long đã dùng lời lẽ ân tình đãi ngộ người bạn quen biết từ thuở sơ thân tuổi học. Tôi không bao giờ quên anh ở giờ phút luyến lưu tình nghiã này. Tôi vốn đa cảm mà anh ấy lại thường chí tình với tôi. Những lúc bất ưng ảnh thường xa xôi mát mẻ với tôi chứ không ỷ quyền hành hạ tôi. Trên bước đường lưu vong, sa cơ thất thế, biết tôi trốn tránh cảnh đời, lặng lẽ nuôi con, giúp vợ, anh đã nhiều lần tìm viếng thăm tôi nhưng không gặp, ảnh cũng chẳng phiền mà chỉ: “Đ.M. nó lặn rồi!”. Gần đây tôi lên tiếng mời anh qua chơi, anh đã thư cho tôi hẹn có ngày sẽ qua bù khú với tôi cho thỏa tình 50 năm quen biết. Tôi thúc dục, ảnh bảo:
– Lúc nầy moa đi đứng bất tiện nên chưa thăm ông bạn già được, cho moa khất hẹn, khi thuận tiện nhất định chúng mình sẽ bù khú bên nhau. Lúc nào có vào đất liền nhớ ghé thăm nhau nghe.
Cái ngày hẹn gặp, nay đã chẳng bao giờ còn gặp, còn thấy lại nhau, kể cho nhau nghe cái ngày ly tan ấy để cho nhau thẩm thấu thêm cuộc đời nó vừa đen vừa bạc! Ảnh đã vổ cánh vút cao tiên cảnh. Tôi còn chới với hồng trần chưa giải xong cái ấm ức trong tôi, giữa tôi và ảnh, giữa ảnh và những người bao quanh xum xoe ăn hại đái nát.
Lòng tôi còn đang đau nặng phút phân ly thì “Cụ Võ” và “Cụ Hách” (TTHLKQ), 2 vị tay nặng chĩu “Valise” hặm hở bước ra, bương bả. QC nghiêm chào. Tôi nghiêm mặt quan sát, lòng thầm trách:
– Thế là cái quái gì ! Ai lại sách tế nhuyễn khơi khơi trốn chạy thế kia?
Còn đang bàng hoàng trước phong thái hết nhuệ khí của 2 cụ, tôi đột nghe:
– Cho tôi cận vệ !
Một lệnh chắc nịch không chút ngượng ngùng. Lúc ấy cộng quân mà nổ súng dứt điểm thì chắc chắn tôi mời 2 cụ đi chỗ khác chơi cho quân binh chúng tôi diệt Cộng. “Cọp chết để da, Người ta chết để tiếng” nhưng “cụ Võ” chẳng chịu để tiếng. Cụ Hách chắc thầm hiểu cái “không phải” nên biết thủ khẩu như bình.
Tôi với 2 cụ chẳng lạ gì nhau thế mà một lời ly biệt chẳng thấy tạ từ. Tôi và quân sĩ của cụ đang ở ngưỡng cửa cái sinh và cái tử, cụ chẳng chịu cùng chúng tôi giữ cái “danh tiếng muôn đời” nỡ nào cụ đòi lấy đi bớt những tay súng vốn dĩ đã nghèo lại dồn tôi phải chịu cái eo.
Lệnh cụ ban. Tất cả đều im lặng.
QC túc trực, Đ/U Trâm chỉ huy phòng vệ thuộc quyền tôi, ngơ ngác nhìn tôi, ngỡ ngàng, chờ phản ứng của tôi, vị chỉ huy trực tiếp đã gian nan chia xẻ những nhọc nhằn với họ suốt từ lúc phản đồ A 37 ị vung vít xuống đầu anh em.

-Những tên phản đồ nầy đừng tưởng được “lưu danh thiên cổ”, các chú đã “lưu xú muôn
đời” có hiểu không ?
– Họ (QC + Đ/U Trâm) đã tìm thấy vị trí của họ, họ đã đứng hẳn sau lưng tôi, họ không còn thói xu nịnh cố hữu bọc theo Tướng như lúc an bình. Họ không nhúc nhích.
– Cho tôi Cận vệ “escort” (hộ tống) tôi đi, nghe không?
Cụ Võ (vẫn cụ Võ) đã hung hăng lập lại lệnh “Hèn” (xin lỗi cụ !).Tôi không còn thầm trách, tôi cũng chẳng còn thấy giận. Tôi đã hiểu đến giờ phút này thế là xong.
Tuyệt vọng ! Gương bỏ ngũ đang Diễu Võ Dương Oai. Quân sĩ tinh thần đang giao động mãnh liệt, , chỉ cần một tiếng súng, không cần rõ ai khai hỏa, Quân sẽ tan từng mảnh, chúng sẽ chạy vì Tướng đã chạy trước rồi!
Trí óc tôi làm việc nhanh. Tương kế tựu kế, đánh tháo đàn em, cứu chúng thoát vòng trách nhiệm của cái “Vô trách nhiệm”. Tôi dõng dạc ban lệnh:
– Đ/u Trâm và QC “theo sát” cận vệ. Đi đi “đừng rời trách vụ”.
Tôi ngụ ý : “các anh hãy nắm lấy cơ hội này theo Tướng thoát đi”. Tôi nhìn nhân viên với ánh mắt thông cảm và khẽ gật đầu phất tay cho họ đi thoát. Họ đã chào tôi lần cuối, có thể là cái chào tri ân. Tôi mỉm cười, quay bước vào phòng tình hình, lúc này chỉ còn ông Linh, ông Lành. Óng Lượng đã đi đâu lúc nào tôi không biết. Được một lúc khoảng hơn mười giờ gì đó, ông Ước
đáp trực thăng trên sân banh chạy vội vào gặp ông Lành, xong cùng ông Linh trở ra kéo luôn tôi theo, miệng nói:
– Đi mày.
Tôi nhìn Linh xong quay qua hỏi Ước:
– Đi đâu ?
– Qua Tổng Tham Mưu xem tình hình ra saọ Ước nói vội và nắm tay tôi lôi đi. Vũ Văn Ước là thế, đối với anh em lúc nào cũng tận tình, không tìm cách dối gian, không quên bằng hữu, không bỏ bạn bè. Tôi và Ước đã từng âm thầm vượt qua những lúc khó xử của chính biến và binh biến. Vào những thời điểm đó chúng tôi chỉ lặng lẽ nhìn nhau, hiểu ý. Ước không đón gió, xu thời. Anh luôn luôn đứng bên lẽ phải, hòa đồng với mọi giới, không hách xì xằng khi đắc thời. Anh rất nhậy bén tình hình. Hẳn nhiên anh đã cảm thấy cái gì không ổn nên đã tìm gặp ông Lành rồi lôi tôi đi vì chẳng yên lòng để tôi ở lại làm “Đười ươi giữ ống”.
Tôi, Ước và Linh lên trực thăng qua đáp tại sân cờ trước tiền đình Bộ TTM. Linh, Ước chạy lên văn phòng TTMT. Tôi không theo, bước xuống trực thăng ngó quanh quan sát một vòng, thấy Công binh chiến đấu đang đặt bộc phá, giây nhợ tùm lum tại Trung Tâm Hành Quân Bộ TTM. Đảo mắt chỗ khác thấy trực thăng Tướng Kỳ. Đàn em trước kia của tôi hiện là cận vệ ông Kỳ vội từ trực thăng nhảy xuống chạy đến tôi nói nhỏ:
– Trong giây lát trực thăng sẽ bay ra Blue Ridge (Soái hạm Đệ thất hạm đội Thái bình Dương của Hoa Kỳ), ông hãy lên cùng đi.
– Tôi hỏi Tướng đâu ?
– Họp trên Văn Phòng TTMT.
Tôi lững thững bước lại trực thăng nhìn vào đã thấy Hà Xuân Vịnh ngồi trên đó từ hồi nào. Tôi buột miệng :

-Lẹ vậy!
Vịnh nhún vai cười toét, không trả lời. Vịnh là văn nhân phải hơn, lúc nào cũng nhởn nhơ chẳng
coi việc gì là quan trọng, chẳng thích hơn thua, kèn cựa thế mà lại là Hoa tiêu phóng pháo đã có Chiến thương bội tinh.
Tôi leo lên ngồi cạnh, suy nghĩ lung đến những lời tâm sự của ông Kỳ với các Tướng lãnh KQ anh em mấy ngày trước đó: “Tôi (ông Kỳ) đã tìm gặp và hội kiến với cụ Hương (đang hành sử chức vụ Tổng Thống VNCH thay thế vị tiền nhiệm vừa từ nhiệm trong hằn học) thỉnh cầu cụ chính thức chỉ định tôi giữ chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng Liên Quân cho tôi có đủ thẩm quyền chỉnh
đốn hàng ngũ quân đội, lập thế ngăn địch, lấy QK 4 trường kỳ chiến đấu. Cụ Hương đã từ chối khéo, viện dẫn tôi đã từng là Thủ Tướng Chính Phủ và Phó Tổng Thống nên chức vụ TTMT Liên quân không hợp thể thống lễ nghi cho tôi. Cụ ấy yêu cầu cho Cụ ít ngày sẽ bổ nhiệm tôi làm phụ tá Quân sự đặc biệt giúp Cụ. Tôi giải thích, nhấn mạnh, tôi không quan tâm đến nghi lễ, tôi chỉ mong có cơ hội chỉ huy quân lực ngay giờ phút thậm chí “nguy ngập” này. Cụ Hương đã lắc đầu
nhất định không trao quyền chỉ huy cho tôi.”
Phải, cụ Hương đã sợ, cả “Đồng minh chạy làng” cũng sợ ông có binh lực trong tay. Họ sợ sẽ không khống chế nổi ông, làm sách lược của họ hư cả !!!
– Khốn nạn thay cho một nước nhược tiểu lại có một vị trí chiến lược trong vùng tranh chấp!
– Cũng khốn nạn thay cho Quân Dân miền Nam vô phước, gặp cảnh Quân cướp đã tới ngoài ngõ, lửa phừng phừng khắp nơi, trong nhà còn nghi kỵ lẫn nhau, phân tranh ngôi thứ!
Đang miên man nghĩ cho mạt vận của nước, mạt kiếp của mình thì ông Linh từ Tư lệnh Bộ/TTM chạy ra một mình đến bên trực thăng có tôi và Hà Xuân Vịnh đang ngồi đăm chiêu mỗi người một ý nghĩ, Linh cứ loanh quanh ở dưới chẳng chịu bước lên cùng chúng tôi. Tôi vội leo
xuống lại gần Linh nhỏ to:
– Linh ! Kỳ sẽ rút ra Đệ thất hạm đội, hãy lên cùng đi. Hết cách thôi!
Linh dường như có điều gì bất ưng nên nhứt định không lên tàu. Tôi hỏi:
– Sao?
Linh nói:
– Thiếu gì máy bay.
Tôi vội báo động:
– Máy bay nào nữa, còn chiếc duy nhứt này thôi.
– Chiếc nữa kia kìa. Linh vừa nói vừa chỉ tay về chiếc trực thăng mà Tôi, Ước và Linh vừa đáp hồi nãy.
– Tàu còn đó, Hoa tiêu đã vội bỏ đi rồi (có lẽ họ đã hiểu đây là phút ly tan nên vội về lo cho vợ con).
Tôi nói với Linh thế là vì tôi đã thấy họ phóng Jeep ra khỏi TTM. Linh nhứt định không nghe, không lên tàu di tản. Tôi đành ở lại bên anh. Tôi không thể bỏ anh thoát thân một mình. Tôi ở lại chia sẻ số phần với anh vì ngoài tình quân ngũ,, ảnh còn có liên hệ gia đình thật gần với tôi. Anh em sống chết có nhau. Hơn nữa tôi chợt nhớ còn ông Võ Xuân Lành vị chỉ huy đoạn cuối mà Cửu
Long khi rời đơn vị đã căn dặn tôi đi cùng, tôi cần phải chu toàn lời nhắn nhủ lúc chia phôi.
Óng Lành với Tôi cùng bạn quân trường, chung một khóa học, nằm đối đầu nhau cùng một đơn vị khóa sinh. Lành ít nói, suốt ngày lầm lì, kỷ luật gương mẫu, thương lính như thương mình, chẳng hề nạt nộ ai.

Vào những đêm cuối cùng cuộc chiến, Lành vẩn xuống văn phòng ứng chiến của tôi xoa mạt chược còm, chờ đợi kết quả các phi vụ Hành quân đêm chặn địch tại Long Khánh, Xuân Lộc. Ảnh đã mỉm cười khi nghe báo cáo “Qủa bom heo” (Daisie cutter) thả từ C.130 đã làm cóc nhái, ễnh ương (cộng quân) câm tiếng. Mặt trận Xuân Lộc, bình thường nhóc nhen, à uõm thâu đêm, nay bỗng dưng bặt tiếng yên lặng dễ sợ! Đột nhiên, quân bài chưa bốc, Lành đã vỗ mạnh tay xuống bàn, miệng hô “MỦN CUN” rồi đúng dậy, cười, quay về văn phòng của anh trên Tư Lệnh Bộ.
Tôi hiểu ý, cười theo, đứng dậy tiễn đưa.
Tôi còn đang phân vân bàn thảo với Linh những bước kế tiếp thì ông Kỳ từ Đại Sảnh Bộ TTM bước ra hướng về chổ trực thăng đậu chờ, dãn theo số đông (Tướng lãnh?) bước rảo lên tàu cùng với Ước bay đi để lại tôi và Linh tự quyết lấy phận mình. Tội và Linh đồng thời cả Đặng Duy Lạc, Không Đoàn Trưởng KĐ-A37 (không biết từ đâu chui ra) vội gọi QC/TTM yêu cầu hộ tống chúng tôi trở lại BTLKQ.
Trong khi còn sớ rớ chờ QC lấy xe thì có mấy anh SQ P.2/TTM biết tôi vội chạy lại hỏi dò:
– Các Tướng đi đâu vậy. Óng có tin gì cho anh em biết với.
Tôi ái ngại nhìn vẻ âu lo của các anh ấy và thẳng thắn nói toặc ý nghĩ của mình:
– Tất cả đã hết. Các Tướng đã cao xa. Các anh cũng nên tìm đường tự cứu.
Tôi không thể dối nhau vì mọi người đã lén lút dối nhau quá nhiều rồi. Tôi không hiểu tại sao lại phải dối nhau, nếu mình không lo được cái an nguy của nhau thì cứ đường đường, chính chính nói thẳng để anh em tự tính, có phải trong nhau không vẩn oán hờn. Nói xong xe QC cũng vừa trờ tới, chúng tôi 3 người KQ lạc lõng lên xe. Với tài xế tôi nói:
– Nhờ anh cho chúng tôi trở lại BTLKQ.
Xe rồ máy phóng đi, trực chỉ Cổng Phi Long, xạ thủ Đại liên trên xe cảnh giác cao độ khi tiến đến đám đông lẫn lộn quân dân bu nghẹt cổng vào. Cảnh vệ KQ, sau hàng kẽm gai, khẩn trương phòng thủ : “Nội bất xuất, Ngoại bất nhập”.
Tinh cầu lấp lánh trên vai, Linh cho lệnh mở cửa. Quân ta phớt tỉnh không nghe. Đặng Duy Lạc ngồi yên khúc gỗ. Tình hình thật gay cấn, quân dân hỗn độn, nếu cộng quân có măt trà trộn trong đám đông thì thương gì mà không tặng cho chiếc Jeep có Tướng Tá KQ đang kẹt cứng
với quân mình một quả lựu đạn hay một tràng AK phong thần tụi nầy. Âu cũng là cái hay không còn thấy cái hèn, cái tủi thêm nữa!
Thấy ông Linh hết “linh” tôi bước xuống xe tiến thẳng đến chỗ anh KQ bất tuân thượng lệnh, điềm đạm ra lệnh không thiếu vẻ đanh thép:
– Em! Hãy mở cổng ngay. Đừng chậm trễ. Lệnh HQ khẩn cần thi hành. Mau lên!
Tôi chẳng hiểu cái “Uy” hay cái “Tình” của tôi đối với thuộc cấp thủa xưa đã khiến được anh riu riú vâng lời. Có lẽ cái “TÌNH” vì cả cuộc sống tôi chỉ biết lấy “TÌNH’ đối xử với nhau dẫu cho tôi ở cương vị nào đi nữa. Trong đời Binh Nghiệp tôi đã thấy và gặp cái “VÓ TÌNH” có khi đến tán tận lương tâm của nhiều Quyền lực bệnh hoạn tâm hồn nắm quyền sinh sát trong tay. . . (Tôi đã đau buồn, tôi tủi phận tôi, tôi chỉ âm thầm ôm lấy cho tiêng tôi.). . .
Cổng mở, Quân dân vội theo vào. Lính gác nổ sung chỉ thiên. Tôi vội ngừng xe bảo họ:
– Hãy cho các KQ và gia đình vào. Cần cảnh giác tối đa. Đừng để mất trật tự.
Nói xong chúng tôi vào thẳng BTLKQ gặp ông Lành. Ôi ! Hãnh diện thay! Niềm tự hào KQ đang ở chỗ này! Niềm danh diện QLVNCH cũng đang ở chỗ này! Tướng Lành, trước thế quân tan vỡ, quân binh đang đua nhau bỏ ngũ, ông vẫn trầm tĩnh kiên trì thủ Đài chỉ huy Hành Quân Chiến Cuộc KQ. Óng giữ vững liên lạc với SĐ4KQ, SĐKQ duy nhất còn hăng say chiến đấu trong khi
nhiều Đơn vị đã vội ngừng nghỉ. Óng đang chờ lệnh tung toàn lực KQ còn lại đánh canh bạc chót.
Ông Linh tóm lược tình hình bên Bộ TTM cho ông Lành rõ. Óng đứng dậy rời Phòng HQCC bước ra tiền đình Đại sảnh mặt không lộ tâm tư. Óng Linh đề nghị rút khỏi TSN. Tướng Lành thật là “lành” nói với Linh trước sự hiện diện của tôi và Đặng Duy Lạc:
– Moa chưa có lệnh.
KQ vẫn đợi lệnh. Phải, chúng tôi vẫn đợi, vẫn chờ dài cả cổ suốt từ lúc mấy “tên mất dạy” làm chuyện lừa thầy phản bạn đến giờ. Chúng tôi chờ lệnh ai đây! Tổng Thống dân cử, Phó Tổng Thống dân bầu đã viện hết lý này lẽ nọ chối bỏ trọng trách toàn quân toàn dân trao phó, tìm thế yên thân, bỏ mặc quân dân tang tóc . . .
Thủ tướng chính phủ, Đại tướng Tổng Tham Mưu Trưởng chỉ còn biết nghĩ cho cái an nguy của riêng mình. Thật quả bất hạnh cho quân dân miền Nam! Mọi người đã bỏ đi cả rồi!
Tội cho ông Lành vẫn ngồi chờ lệnh. Mà lệnh của ai đây! Tôi buột miệng:
– Óng chờ lệnh ai, còn ai đây nửa để có lệnh cho mình.
Óng Lành trầm ngâm không nói, chúng tôi lặng yên chờ (lại chờ) quyết định của ông, chợt Tướng Lưỡng (dù) xịch Jeep đến, thấy tụi này còn đương nhìn nhau vội hỏi:
– Tụi toa định làm gì đây?
Óng Lành ngượng nghịu chưa biết phải nói sao cho đỡ khó nói. Lành là thế đó, lúc nào cũng sợ phải mang tiếng hèn nên chẳng có lời hèn. Tôi nghĩ khác, giờ này không phải đem cái “DŨNG’ cái ‘HÈN’ mà luận anh hùng, giờ này phải là lúc có quyết định nhanh và dứt khoát. Tôi nhận cái “Hèn” cho tôi. Tôi nhìn thẳng Tướng Dù nói nhanh:
– Tụi này Zoulou đây. Óng có theo thì cùng đi.
– Zoulou ? Zoulou bỏ lại mấy đứa con (ý nói các TĐ dù) lang thang sao đành!
Óng Lành hỏi:
– -Toa còn mấy đứa con ?
Óng Lưỡng:
– Sáu đứa chung quanh đô thành.
Lúc này trực thăng Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đổ bộ và bốc người loạn cào cào không phận Saigon TSN. Tôi đỡ lời ông Lành:
– TSN không giữ được, KQ chúng tôi phải rút khỏi tầm pháo địch trước đã.
Óng Lưỡng vội hỏi :
– Tụi toa định rút đi đâu ?
Tôi lại nhanh nhẩu:
– Có thể vùng 4, có thể đi luôn.
– Chờ moa một chút, cho moa về thu xếp với mấy đứa con cái đã.

Nói xong ông Lưỡng lên Jeep về SĐ Dù. Nhân lúc chờ đợi Tướng Dù trở lại, các Sỉ quan cấp
KĐ, Tham Mưu BTL KQ hiện diện cùng với một số binh sĩ thuộc Tổng Hành Dinh KQ vội tập họp trước tiền đình TLB bao quanh chúng tôi nghe ngóng tình hình. Biết ý họ, tôi nói thật nói thẳng:
– Dưới áp lực nặng của Pháo cộng, BTLKQ buộc phải rút khỏi đây. Ai muốn theo hãy sẵn sàng.
– Thưa rút đi, đi luôn ạ. Một Hạ sĩ quan thuộc THDKQ hỏi lại.
– Hãy biết rút khỏi đây đã, có thể là vậỵ Tôi vắn tắt không giải thích nhiều hơn.
Vị Hạ sĩ quan này đã không cầm được nước mắt buồn bã xin tôi:
– Cho chúng em ở lại vì chúng em còn vợ con không thể bỏ đi cho đành.
– Tùy các anh, tôi không ép buộc ai cả.
Chỉ có Th/sĩ Văn, chỉ huy trưởng QC/BTLKQ quyết chí theo chúng tôi. Một Binh nhì KQ gốc miền Trung bỗng lên tiếng:
– Thưa, tất cả đi rồi Em còn tiếp tục đứng gác Cổng BTL nữa không?
Tôi đau lòng thấy lính mình quá chân thật, vội nói lớn như muốn mọi người hiện diện cùng nghe:
– Kể từ giờ phút này các anh không còn trách nhiệm gì với KQ nửa. Các anh có thể rời đơn vị lo cho sự an nguy của vợ con càng sớm càng tốt. Còn em, tôi vỗ vai anh Binh nhì đơn thuần, Em không cầ lo cho cái BTL bỏ trống này, Em hãy về nguyên quán.
– Thưa, Em chẳng còn ai, đường xá đã cắt đứt cả rồi.
Nước mắt chảy vào tim, tôi chỉ còn biết dúi vào túi người lính thiếu may này mấy tờ “tiền Lèo” để cậu ta có thể sống đỡ ít hôm liệu tính cho phận mình. Cùng lúc đó, Tướng Dù đã trở lại. Chúng tôi luận kế rút đi, khi xét kỹ lại không ai là Hoa Tiêu vận tải.
Tướng Lành, Thảo Nâu, Đặng Duy Lạc đều là Hoa Tiêu phóng pháo. Óng Linh đề nghị qua DAO.
– SĐ5KQ thì sao? Tôi hỏi nhỏ Linh.
– Các Hoa Tiêu đã tự ý rút cả rồi (vì không muốn đưa lưng chịu thêm Pháo cộng nữa). Linh thở dài trả lời tôi.
Bây giờ tôi đã “hiểu” tại sao ông Tiên lên TLB gặp Cửu Long với nét mặt không vui và đầy lo âu hồi sáng nay. Sau phút suy tính, Vị chỉ huy đoạn hậu BTLKQ cho lệnh rút. Tất cả đã lên 3 Jeep, dẫn đầu bằng Jeep có đèn chớp ưu tiên trực chỉ DAO.
Tới Cổng DAO, một dân sự Mẽo mặc áo giáp, M17 cầm tay chặn chúng tôi lại:
– General only ! Tên đó hách dịch ra lệnh.
Hai Tướng KQ một Tướng Dù bước vào trong rào kẽm gai, ông nào cũng đeo Browning 14 phát cạnh sườn. Tôi mặc áo liền quần đèo thêm áo giáp cũng lủng lẳng Browning ngang lưng, lững thững theo vào phớt tỉnh kể như không nghe anh Mẽo sủa gì, chờ tôi bước vào trong, anh mọi Da đỏ kéo kẻm gai khóa lối.
Một tiếng mách bu chói lói vang lên:
– There are only 3 generals. Three only!
Tôi quay nhìn ra mới hay ĐVR đang hận vì sao tôi không lon không mão lại được hưởng quy chế Tướng Lãnh ngang xương.
Ghen ? Ganh ? hoặc muốn ngầm ý nhắn với giặc Mỹ anh mới là người xứng đáng được qua ải sau Tướng vì anh, Chánh Văn Phòng Tư Lệnh KQ, đường đường một đấng cao sang !!!
Tên Da đỏ chẳng có phản ứng gì, chắc còn đang tìm hiểu xem cái ông đeo 3 hoa bạc sáng ngời muốn lắp bắp cái gì hoặc thấy tôi phong trần trong quân phục phi hành tác chiến nên muốn đặc biệt đãi ngộ tôi. Óng Linh nghe tiếng ĐVR tiếp tục tru tréo vội gỡ sao của ổng, nói lớn trước sự chứng kiến của ông Lành:
– Anh hãy nhận “Sao” này. Vừa nói vừa gắn “Sao” cho tôi.
Tôi đưa tay chận lại vừa đùa vừa phân bua:
– Các ông nhớ đấy nhé. Vào giờ phút cuối cùng của KQ tôi đã lên Tướng, Tướng KQ. Đúng là Tướng Không còn Quân. Óng Linh dã không cười, ông Lành cũng không cười. Linh nói trong nước mắt:
– Giờ phút này anh còn đùa được sao ! Anh hãy nhận “Sao” đi.
Tôi lắc đầu, đồng thời quay ra, tự tay gỡ kẽm gai bước khỏi vòng phân ranh Mỹ-Việt. Anh Mẽo gác cửa chẳng hiểu cái anh phi hành bé người kia đã vào sao lại bỏ đi trong khi nhiều người muốn vào lại vào không được. Tôi mặc xác anh Mẽo nghĩ gì, tôi chỉ lo trấn an ĐVR:
– Tao không bỏ nhau đâu.
Linh thấy tôi bỏ đi, mếu máo, có lẽ đã hối hận để tôi kẹt lại trong khi tôi đã có thể cùng ông Kỳ thoát đi an toàn rồi, nên trước khi vào DAO đã nói vọng ra ngoài kẽm gai:
– Anh về hãy dung đường bộ rút xuống vùng 4 với Tần.
Tôi nghĩ đó là đường tự sát vì giờ đây quanh Đô thành còn nơi nào Cộng quân không đóng chốt. Để Linh yên long đi thoát, thoát người nào vẫn may cho người đó, tôi an ủi:
– Linh, yên tâm, cứ đi. Tôi biết tự lo. Nhớ lo cho vợ con tôi, nếu có cơ hội.
Nói xong tôi vội nhảy lên Jeep và nói lớn với các SQ không phải là Tướng, lố nhố kẹt cứng trước Cổng DAỌ
– Chúng mình quay lại SĐ tìm phương tiện khác thôi.
Tất cả nhảy lên mấy Jeep đậu đó, lúc ấy tôi mới để ý thấy có ông Thảo Nâu, ông Thân Kiểm Báo, ông Đặng Duy Lạc, ông Chu Trọng Đễ, một số SQ cấp tá, cấp úy khác và lẽ dĩ nhiên có cả người anh em “mách bu”.
Dẫn đầu là chiếc Jeep có đèn hiệu chớp tắt do Th/sĩ Phan Thành Thiệt lái, kế là xe tôi đoạn giữa, xe lăn bánh hướng về phi cảng thì “Đoàng! Đoàng” mấy quả đại pháo nổ ngang trước mặt, Phan Thành Thiệt trúng thương (chắc nhẹ), xe đổi hướng lòn qua khu Cứu hỏa, vừa lú đầu ra khỏi thì “Đoàng! Đoàng” thêm mấy quả pháo giăng. Đoàn xe vội ngừng, tất cả nằm dài trên thềm
cement tránh đạn.
Tôi suy nghĩ cớ gì đạn pháo lại đeo đuổi đoàn xe sát thế. Hẳn nhiên Tiền sát Cộng quân điều chỉnh tác xạ rồi, không biết chúng núp ở đâu? Trên Đài kiểm soát Không lưu? Trên lầu nước SĐ? Trên nóc nhà thờ Gò Vấp cận vòng đai phi trường? Chúng ở đâu mình không rõ nhưng chúng biết rõ mình ở đây, trong khu Cứu hỏa dân sự, đang phơi bụng chờ Pháo phanh thây.
Chúng sẽ “salvo” vì chúng đã đóng khung mình rồi. Nghĩ đến đó tôi quyết định không nằm chờ chúng làm thịt, tôi phải thóat khỏi nơi nầy. Tôi nói lớn:
– Chúng ta hãy rời khỏi nơi đây. Cộng có thể đìều chỉnh pháo tới. Hãy tìm phương tiện thoát thân.
Nói xong tôi đúng dậy ra xe thì nghe tiếng Phan Thành Thiệt:
– Em không đi nữa. Em ở lại ăn thua đủ với chúng. Em đã trúng thương.
Tôi quay lại xem xét vết thương cho Thiệt, chỉ thấy vài đốm lấm chấm máu khô trên má, trên cổ, có lẽ do đá sạn cement văng trúng ngoài ra không có vết thương nào xuất huyết cả.
Tôi bảo:
– Đi Thiệt, anh bị thương nhẹ thôi. Hãy theo tôi, ở lại không được đâu.
Thiệt cương quyết ở lại. Tôi đành lên xe ra đi. Trên xe có Thảo Nâu, Thượng sĩ Văn và một số sĩ quan chừng độ chục người đeo nặng thành xe. Xe vừa xiêu vẹo ra bãi đậu thì Cộng lại ẫm ương pháo, chỗ này đám khói, chỗ kia đám cháy. Tôi, Thảo, Văn đổ lỳ, cứ đi nghĩ rằng hôm nay là ngày lên ngồi bàn thờ cũng phải rồi. Thảo bảo tôi:
– Mình ra khu trực thăng, moa thấy nhiều lắm, đậu phiá gần phi đạo hướng Bà Quẹo đó
Tôi thắc mắc:
– Cậu ra khu trưc thăng làm gì ? Cậu khu trục thì đến khu trục chớ ! Cậu biết lái Trực Thăng à?
Thảo cười mũi:
– Tàu nào Thảo Nâu chẳng lái được. Óng đừng coi thường tôi chứ, Thảo Nâu mà ông quên rồi sao?
Bụng tôi nghĩ “Nâu” chỉ liên hệ với “Nắng” vì “Nắng” nhuộm Nâu hắn chứ ăn nhậu gì đến lái đủ loại máy bay, chẳng lẽ hắn Nâu vì dầu mỡ đủ loại máy bay nhuộm hắn, hắn lăng lộn với đủ loại tàu à ? Có lý ! Tôi khích hắn:
– Có thật không đó cha, Thảo Nâu lái khu trục thì biết rồi. Chapeau! Còn cái khác chưa biết à.
– Óng cứ tin tôi đi. Tàu gì tôi chẳng nhúng tay vào.
Thoáng chốc đã đến chổ đậu Trực Thăng. Lên chiếc nào mở máy cũng không nổ. Tôi cười cười, hắn nổi xùng nhảy xuống mở thùng khám xăng, hết tàu này đến tàu kia. Tàu nào cũng khô ran.
Thảo Nâu thành Thảo Xám, hắn đù lu bù. Sau cùng hắn nắm lấy chú lính gác quanh đó chất vấn:
– Sao không có chiếc nào có xăng vậy hả. ĐM làm ăn sao vậy ?
Chú lính lắp bắp:
– Tại Tướng Tiên cho lệnh rút hết xăng khỏi tàu.
Tôi đã hiểu, ông Tiên sợ các người hùng bỗng dưng nổi sùng, Tập đoàn cất cánh về nơi vô định thì ông Tiên còn ai đâu để đàm đạo đánh đấm. ồng cũng có cái lý của ông vì thực ra khi ổng vào TLB gặp Cửu Long với nét mặt âu lo như gà mắc đẻ là lúc các Hoa tiêu Vận tải rủ nhau lên chiếc tàu C.130 xuôi “Thái Lan” giã từ Tổ Quốc Không “Gì-Ăn” nhập đoàn “Cái Bang” lang thang khắp chốn “Cờ Hoa” khất thực.
Chọn Trục Thăng thoát nguy không xong, Thảo Nâu chở tôi trên Jeep tìm Cessna. Gặp Cessna Thảo leo lên bảo tôi ngồi ghế phải. Hắn quay máy, máy nổ. Bỗng nhiên con tàu xao động dữ dội. Quan quân ở đâu nhiều thế, đang dành nhau lên tàu. Chú Văn (QC) vẫn theo sát tôi từ sớm cũng
đã nhanh chân lên được ghế sau.
Cessna chỉ có 5 chỗ, 2 trước 3 sau, làm sao chứa trên chục người. Đeo toòng teng? Mặc kệ cứ đeo!
Thảo Nâu nổi thịnh nộ:
– Tàu chỉ đủ chỗ cho 5 người thôi. Tụi bay đeo đầy như thế bay làm sao được. ĐM tao chịu thua rồi đó.
Thảo Đù mặc Đù, chạy chết cứ chạy, Sĩ quan, Binh sĩ cứ lì, ai ngồi cứ ngồi, ai đeo cứ đeo. Tôi cảm thấy bất nhẫn, mình muốn đi lại bảo người ở lại, mình muốn tự do lại bảo người cá chậu, mình muốn thoát lại bảo người đừng theọ Tôi thấy xấu hổ ! Rõ ràng mình trốn chạy lại bảo thuộc cấp ở lại cho mình dễ trốn. Nếu chở đủ cả chục người đeo trong đeo ngoài thì tàu lam sao cất cánh, cứ là rụng như sung, cái chết cầm chắc. Lỡ mình sống, thóat, nhưng thuộc cấp tan thây, nát thịt, chắc chắn mình sẽ sống không yên trong quãng đòi bại trận còn lại. Lương tâm người chỉ huy chẳng bao giờ tha thứ cho hồn mình.

Tôi bất lực. Tôi cũng chỉ là người tháp tùng, chiếm một chỗ ngồi, mặc dầu tôi chủ xướng tìm phương tiện thoát thân. Tôi không thể lấy tư cách chủ xướng mà có được một chỗ ngồi an lành. Tôi cũng không thể lấy tư cách là vị Sĩ Quan cao cấp thâm niên nhất mà dành quyền chễm trệ.
Thảo Nâu thì khác, anh có quyền vì anh là “Thợ Lái”, không có anh tất cả đều ở lại. Anh ta là Phi công Khu trục, chiến đấu quyết liệt suốt chiều dài cuộc chiến, ảnh không đầu hàng, không thể đầu hàng dễ dàng nhất là cái trở ngại nhất thời “chạy chết của anh em”. Chỉ còn tôi, tuy tôi bất lực với mọi người, với con tàu, nhưng tôi vẩn còn quyền, còn khả năng quyết định cho chính tôi, chính bản than tôi. Tôi không sai khiến ai đươc nữa nhưng tôi vẫn sai khiến được tôi.

Tôi lấy quyết định:
– Các anh không chịu nhường nhau thì tôi nhường chỗ tôi cho các anh.
Nói xong tôi mở cửa bước xuống. Thảo vội níu tay tôi lại, có lẽ anh ấy đã mục kích cảnh tôi đã vào DAO lại quay ra cùng chia xẻ gian nguy khốn khó với anh, cùng anh đổ lì trong lửa đạn tìm hết tàu này đến tàu khác để có được con đường sống, nay đường sống trong tầm tay thì lại nhường lại cho em út, ảnh đã không chấp nhận:
– Không được! Ông có xuống thì cũng chỉ có một chỗ trống thôi.
– Anh Thảo ! Lời nói của anh cho thấy cái công chính mà anh luôn có trong anh, cho thấy cái thân quí mà anh dành cho tôi trước cảnh chia ly. Chính cái tình này đã đủ sưởi ấm lòng tôi cho tôi thêm can đảm dứt khoát rời tàu.
Nói với tôi xong Thảo quay về phiá sau la lớn:
– Tụi bay có xuống bớt không. Tao chịu thua rồi đó.
Thảo lập lại “chịu thua” một lần nữa, không một ai nhúc nhích. Tôi cương quyết leo xuống dành đường sống cho em út dẫu cho chỉ có một chỗ thôi: một mạng được sống còn hơn một mạng phải chết! Tôi không kiêu hùng gì, quả cảm gì, tôi chỉ hành sử đúng tư cách của cấp chỉ huy lo cho cái an nguy của thuộc cấp trước khi nghĩ đến cái an nguy của chính mình.Tôi leo xuống, hi vọng nêu gương tốt cho những anh em khác cũng nhường chỗ cho nhau để ít ra cũng còn người sống không đến nỗi chết cả đám, chỉ vì lo chạy mà không nghĩ đến phi cơ rơi do qúa tải; lưu xú muôn đời!
Tôi lên Jeep định lái đi thì QC Văn cũng bỏ tàu leo lên ngồi cạnh tôi. “Huynh đệ chi binh” là chỗ này đấy!
Sống chết có nhau cũng chỗ này đấy! Thày trò chúng tôi vẫn có nhau từ sáng đến giờ. Văn không để tôi đơn lẻ trên bước đường bại tẩu. Tôi mở máy, lái xe đi, chợt thấy một Caribou cửa hậu để mở, trên đầy quân nhân, đàn bà, trẻ nít và hành trang ngổn ngang. Tôi vội lái xe về hướng đó thì chiếc Caribou chuyển bánh chạy đi. Tôi càng đưổi, Caribou càng tăng tốc lực. Tôi ra dấu cho mấy người trên Caribou báo cho Hoa tiêu chờ chúng tôi đi với. Caribou cứ vô tình gia
tốc. Văn bỗng nổi giận “mất khôn” đưa Tiểu liên toan lảy cò vào lòng tàu. Tôi vội cản lại:
– Đừng, đừng bắn anh Văn. Anh em vợ con KQ cả đó. Tôi xin anh!
– Mấy người đó vô tình, quyết bỏ rơi mình. Ông yêu cầu, chúng bỏ mặc, chúng cứ đi, Văn hằn học nói, chúng muốn cho mình chết thì tôi cho chết cả.

Văn giận quá rồi. Tôi kéo tay súng của Văn chĩa đi hướng khác và dùng tâm lý khuyên anh bỏ ý định trả hận giữa anh em nhà:
– Anh Văn ! hãy nghe tôi. Tôi là nhân viên phi hành tôi biết loại phi cơ này cũ quá rồi, chở nặng thường rơi bất tử. Anh trông kià phi cơ chỉ có một máy chạy thôi, máy trái đang cố quay mà không được. Nếu cứ thế mà cất cánh thì chắc chắn sẽ rơi. Chúng mình tội gì chui lên cho bầm dập thân xác. Văn nghe ra và bình tĩnh ngồi lại ghế cạnh tôi và hỏi với giọng bình thường:
– Bây giờ mình tính sao ?
Tôi nhếch mép cười:
– Nếu chúng ta không còn phương tiện ra đi nào nữa thì tối nay tôi với anh vào Chợ Lớn “Nhất dạ đế vương” một chuyến rồi ra sao thì ra. OK ?
Văn nín thinh. Tôi lái xe lòng vòng, lang thang phi đạo chủ ý vớt vát có Tàu nào cất cánh muộn thì quá giang. Mọi Tàu đề ngơi nghỉ lạnh lùng nơi bãi đậu. Tôi chán nản quay xe ra phố. Trên đường rời khỏi SĐ5KQ, ngang qua văn phòng Tư Lệnh Phó SĐ, thấy ánh đèn, cửa mở, tôi đậu xe bước vào gặp Đinh Thạch On, ngồi thẫn thờ sau bàn giấy.
Tôi hỏi :
– On ! Sao còn ngồi đây? Tất cả bỏ đi hết rồi, anh cũng đi đi thôi.
Đinh Thạch On lúng túng, không dứt khoát, dường như có cái gì dùng dằng giữ ảnh lại.
Tôi hối thúc:
– Đi đi toa. Ở lại chỉ còn tôi với anh là lớn cấp nhất, Cộng nó nắm được, nó đem tôi và anh qùy trước sân cờ “Cắc bùm” tế cờ đó.
Đinh Thạch On như người mất thần:
– C.130 tụi nó lấy đi trốn cả bầy rồi.
– Còn C.47 mà. Tôi nhắc nhở On.
On thở dài :
– Đã lâu lắm tôi không còn lái C.47.
On vốn ít nói, hiền như cục đất nên chỉ trả lời vừa đủ.
Tôi khích lệ:
– Dẫu sao anh cũng đã có lái nó rồi. Quên chút lúc đầu, ôn lại trong đầu anh lại nhớ ra đó mà. Anh cứ lái, tôi chấp nhận để anh đập máy bay giết tôi hơn là để tụi Cộng hạ nhục tại sân cờ trước hàng quân của mình. Chết vì máy bay rơi, chết mau. Chết với quân khát máu, chết mòn chết tủi đó bố ơi.
Đang cố thuyết phục ông TLP/SĐ, thình lình nghe tiếng xôn xao và tiếng động cơ nặng nề gầm gừ. Ngó ra ngoài một chiếc M113 đang lùi, thụt lùi. Tôi vội bước ra chận lại hỏi:
– Có chuyện gì ? Tại sao lùi?
Trưởng xa, một KQ trả lời:
– Chúng em thuộc Phòng thủ, tụi Cộng tiến xát rào , chúng em rút sâu về.
Tôi phản ứng lấy lệ vì nghĩ mình cũng đang thuyết phục rút thì rầy rà chuyện rút với không làm gì nữa:
– Rút đi đâu nữa!
Nói xong, buông xuôi, tôi quay vào nói với On:
– Anh nghe rồi đấy chứ, không thể chần chờ hơn được đâu.
Lúc ấy On mới nghiêng người cúi xuống, kéo học tủ, lôi ra cuốn kỹ thuật C.47 lật từng trang và nói:
– Để moa ôn lại chút đã.
Cứ thế On ngồi thản nhiên học hết cuốn kỹ thuật. Một phút lúc ấy là một thế kỷ đối với tôi. Tôi như ngồi trên lửa. Bên ngoài M.113 lui tới lui lui, quay ngang, quay dọc, binh sĩ chạy xuôi chạy ngược, tiếng súng lẻ tẻ đây đó. Tôi ngồi trước bàn giấy On, đăm đăm ngó ra ngoài cửa chính, tay nắm chặt tiểu liên, cùng với Văn, sẳn sàng nhả đạn, chờ cho On học bài xong. Cuối cùng On cũng đứng dậy theo tôi đi ra tìm tàu thoát hiểm.
Chúng tôi ra thẳng bãi đậu C.47. Leo lên chiếc đầu mở máy, máy gầm gừ, cánh quạt quay từng vòng uất nghẹn chẳng chịu vung mình đoạt gió. Leo xuống khám xăng, xăng còn, khám máy, máy lủng chảy dầu, có lẽ đã trúng hỏa tiễn hay miểng bom thù. Leo lên chiếc khác, chiếc đó lại
không xăng. Cứ thế lếch thếch kéo nhau từ ụ C.47 này qua ụ C.47 khác giữa cơn nắng trưa. Tàu nào cũng ỳ ra chẳng chịu chuyển mình.

Ngay lúc ấy một trực thăng TQLC Mỹ bay đứng trên đầu chúng tôi, nghiêng mình quan sát. Tôi ra hiệu, yêu cầu đáp bốc chúng tôi. Quân “Bạc nghĩa” quay ngoắt bay đi bỏ mặc lũ bại quân tự liệu. Ai bảo có cánh mà không bay lại nhờ người cõng. Chúng đâu có hiểu “Phụng Hoàng” đang thất thế sa cơ vì cộng quân bế mất huyệt đạo nên mới nhờ “Gà Mỹ” mượn sức qua cơn khốn khó. Đâu ngờ cái giống Gà này nó “xỏ rét”, nó “xỏ lá”, xỏ lá kềnh.
Thật ra mình cũng chẳng nên trách người. Có trách nên trách chúng mình đã thiếu hẳn một kế hoạch rút quân chu đáo, an toàn và trật tự. Trong mọi cuộc hành quân thì hành quân tháo lui là khó khăn và gay go nhứt, cho nên cần được nghiên cứu tỉ mỉ, ước tính và tiên liệu thật sát, chuẩn bị thật chu đáo, thi hành thật cẩn trọng. Thế mà mình lại vội vã, “Quân hồi vô phèng” mạnh ai nấy rút chẳng ra cái “Thống chế” gì để cho cả Bạn lẫn Thù coi khinh coi rẻ.
Xấu hổ ! ! !
Sau phút ngỡ ngàng vì “Tình Phụ” do người anh em bất nghiã bỏ đi, Đinh Thạch On chán nản ra mặt vốn dĩ dùng dằng chẳng muốn đi từ đầu thì đây cũng là cái cớ buông xuôi cho tiện. On không muốn tìm tàu thêm nữa. Tôi bắt đầu lo cho kiếp cá chậu chim lồng, cộng quân cắt
tiết. Tôi mở bóp lấy mọi giấy tờ, thẻ kiểm tra, chứng minh thư Phủ đầu rồng, thẻ mang vủ khí tùy thân hủy bỏ chỉ giữ lại thẻ bài kim khí có ghi rõ số quân, loại máu, đeo lòng thòng trên cổ (hiện tôi còn giữ làm kỷ niệm, nhớ lại một mùa xuân để mất).

Hủy xong giấy tờ, tôi ngó mông lung qua dẫy phi cơ lặng lẽ bên đường, lòng hướng về Mẹ già chẳng biết giờ này ra sao? Tôi không khóc được. Tôi buồn thê thảm. May hừng sáng nhân lúc cộng quân tạm ngưng pháo kích, tôi đã bắt liên lạc được với vợ chồng người em trai cư ngụ vùng Chí Hòa, yêu cầu chăm nom Mẹ cho tôi được yên lòng trong phút tử sinh ly biệt đang chập chờn bên tôi.
Vợ con tôi!Trước đó it ngày, cô em vợ, công dân Mỹ, đã từ Mỹ bay về lập thủ tục giấy tờ ngoại giao trong đó có cả tôi, bốc đem đi vội vã. Tôi đã từ chối đi theovì nghĩ rằng nước mới trong dầu sôi chưa mất, quân trong rối rấm chưa tan. Vợ tôi vùng vằng:
– Nếu anh không cùng đi thì Em và các con cùng ở lại.
Tôi vội khuyên:
– Em hãy đem con rời khỏi đây và nuôi nấng dạy dỗ chúng nên người cho anh. Anh đi bây giờ là anh bỏ ngũ đó. Anh không muốn muôn đời lưu xú.
(Cũng vì cái lẩm cẩm này mà tôi đưởc Bà Xã tặng cho biệt hiệu: Óng già lẩm cẩm mỗi khi nàng nhắc đến phút luyến lưucủa ngày buộc phải để nước lại sau lưng, ra đi tìm một ngày mai ít buồn, ít tang tóc hơn cho mình và cho con cháu.)
Vợ tôi không chấp nhận lập luận của tôi:
– Chồng đâu, vợ đó. Em không đi.
Tôi làm mặt giận:
– Em phaỉ nghe anh!
Rồi tôi dỗ dành:
– Em hãy đi, đem con về chốn an toàn, như thế anh được rảnh tay, đúng lúc phải đi anh sẽ đi kịp lúc, không phải tìm Em và các con, e rằng như thế quá muộn và quá hiểm nguy.
Vợ tôi ngần ngừ, suy tính. Các con tôi còn quá thơ dại, đứa lớn chưa đầy 7 tuổi, đứa bé mới hơn năm còn bế ẫm, ngơ ngác hết nhìn cha đến nhìn mẹ. Tôi cầm tay vợ đoan chắc:
– Em đi bây giờ, chúng mình còn có cơ hội gặp nhau. Nếu em và các con ở lại, chắc chắn sẽ ly tan vì lửa đạn vô tình chẳng chừa ai, tội nghiệp các con vì mình mà lây họa.
Xuôi lòng, vợ tôi gạt nước mắt dẫn con cùng gia đình bên ngoại các cháu qua DAO nhập đoàn di tản có trật tự. Gia đình bên nội các cháu (Mẹ tôi, Em tôi, cháu tôi) đã nằm lại chịu chung số phận với con dân miền Nam bất hạnh.
Đang để hồn vấn vương trong đau thương, tuyệt vọng, tôi chợt thấy một C.47 óng ả phơi mình bên ụ hangar trướt mặt, hàng rào kẽm gai khóa kín, liền vội bảo On:

– Có chiếc C.47 kia trông còn nguyên vẹn. Hãy qua xem.
On lắc đầu:
– Cũng “dzậy” thôi !
Tôi chưa hết hi vọng, còn nước còn tát, tôi cương quyết rảo bước qua mau. On không theo, chẳng ai buồn theo. Tới nơi, tôi loay hoay gỡ kẽm gai để tiếp cận quan sát con tàu cuối bãi và cũng là cuối cùng. Một Hạ sĩ quan đã theo chân tôi hồi nào không hay, vội tiếp tay gỡ kẽm
gai kéo qua một bên.
Tôi hỏi nhỏ:
– Anh chuyên môn gì ? Có biết gì về phi cơ ?
Người Hạ sĩ quan kiêu hãnh trả lời :
– Em là cơ phi.
Tôi mừng rỡ:
– Em hãy tiền phi, xét tình trạng động cơ và xăng nhớt. Mau đi em !
Chú em này thật rành việc. Chú thoăn thoắt nhảy lên cánh, mở nấp xăng miệng reo to:
– Mucho ! Mucho ! Ý nói xăng đầy.
Tôi quay ra ngoài gọi to, ngoắc Đinh Thạch On qua mở máy thử. Tôi chỉ là Phi hành dẫn lộ (Navigator, KQ mình gọi là điều hành viên, cái tên chẳng phi hành tí nào!), không có “thợ lái” thì “thợ tính gió chỉ đường mây” cũng chỉ là “loài Bò sát”. Sau khi biết chắc phi cơ đầy xăng, Cơ phi nhảy xuống kiểm soát động cơ, đến khi mở cửa lên tàu mới vỡ lẽ cửa khóa với cái khoá tổ bố, liền thất vọng kêu lên:
– Cửa tàu khoá làm sao đây ?
Tôi chưa kịp phản ứng thì một Binh nhì cầm M.16, chẳng biết đã có mặt ở đó từ hồi nào, có lẽ chú ta canh gác sớ rớ ở đây mà vì bận tâm với kẽm gai tôi không thấy, hô to:
– Để em bắn bể khoá.
Nói xong chú ta lên đạn, đưa súng chĩa vào ở khoá. Tôi thất kinh quát lớn:
– Đừng bắn, nguy hiểm. Mình còn một tàu này thôi.
Chú lính xững sờ nhìn tôi :
– Không phá cửa làm sao lên?
Tôi vội giải thích:
– Em bắn thì được nhưng có biết đạn đạo đi đâu không. Nếu đường đạn đi cắt đứt các giây “Cable” điều khiễn cánh bay thì tàu làm sao bay được nữa.
Chú em nầy vẫn ương chưa chịu hiểu. Tôi nghiêm nét mặt:
– Chú chỉ huy hay tôi. Nếu còn coi tôi là cấp chỉ huy thì hãy nghe tôi.
Thật ! vào lúc hàng quân tan rã muốn chỉ huy được quả muôn phần khó khăn. Quay qua Cơ phi tôi bảo:
– Em hãy phá cửa gió cockpit chui vào, luồn ra sau mở chốt cửa nhảy dù là mọi người lên được.
Cơ phi làm theo ý tôi, cửa dù C.47 mở rộng vào trong. Tiếng reo vang dậy, mừng vui.
Trời ơi ! Người đâu mà lắm thế, hồi nãy có bao nhiêu đâu, hết đợt này, đợt khác ùn ùn tay sách nách mang lên tàu.
Tôi đứng dưới trông chừng, chờ mọi người lên hết thì đột nhiên một chiếc xe Jeep rít thắng bên tôi, một Sĩ quan vận phi bào người đẫy đà, khỏe mạnh, nhảy vội xuống miệng nói hấp tấp:
– Cho chúng em đi với.
Tôi liếc lên Jeep thấy có vợ con, tôi vội hỏi:
– Anh có lái được C.47 không?
Sở dỉ tôi hỏi câu này vì tôi vẫn ngại Bố On một mình không biết xoay trở ra sao, nếu thêm co-pilot thì cũng chắc dạ phần nào.
Tươi nét mặt, cậu Sĩ quan hào hoa tự tin:
– Thợ ! Thợ C.47 là em ! Em, Đại úy Quý C.47 đây.
Tôi đã rời Liên Phi Đoàn Vận Tải từ lâu, từ hồi cụ Ngô còn chấp chánh, tôi đâu có biết Đại úy Qúi là ai, nhưng điều chắc là tôi đã có một Hoa tiêu lão luyện tiếp tay với con chim già mệt mỏi Đinh Thạch On rồi. Tôi cười vỗ vai thân mật:
– Lên đi mà tiếp tay với Tư lệnh phó của anh trên đó. Trông cho mọi người lên hết, tôi mới leo lên sau. Bước lên khỏi bậc thang cuối, ngước mắt nhìn lên: Trời! Người, hành trang, hỗn độn, ngổn ngang, chật hơn nêm cối, chẳng chỗ len chân. Nhìn kỹ mới vỡ lẽ chiếc C.47 này là loại đặc biệt trang bị giường ngủ, bàn làm việc dành cho Tướng Tư lệnh vùng II. Giờ tôi đã hiểu vì sao mà nó ngoan ngoãn nằm im không ai đụng tới, xăng nhớt đầy đủ, khóa trước khóa sau.
Cái số tôi cũng lạ, suốt 25 năm quân ngũ chỉ chạy hiệu, bỗng dưng vào ngày mạt vận lại được tặng “sao” rồi “Tư lệnh Vùng” ( Tư lệnh trên chiếc phi cơ này thôi) điều động một dúm bại quân trốn chạy. Chẳng biết đáng cười hay đáng khóc!
Phi cơ trang bị nặng nề nay lại đầy khách quý, quá tải là cái chắc. Nhẩm đếm đầu người, tất cả 76 người kể cả phi hành đoàn ( 2 hoa tiêu 1 cơ phi). On nhìn tôi lắc đầu. Tôi nhìn On ngầm hỏi có bay nổi không? On yêu cầu xuống bớt (lại cảnh xuống không xuống) không một ai nhúc nhích. Tôi thở dài, hiểu rằng C.47 Full combat load cũng chỉ chở được tối đa 41 người với vũ khí
trang bị. Đằng naỳ tàu đã trang bị giường sắt, tủ sắt, bàn sắt, ghế sắt, hằm bà làng, lủng ca lủng củng lại còn đèo theo 76 mạng với đủ tài sản thiết thân thì làm sao cất cánh nổi đây!
Tôi nói dỗi :
– Nếu không ai xuống, tôi xuống. Có ai theo cùng không?
Tôi nói mặc tôi. Tôi đảo mắt nhìn mọi người. Mọi người đều cúi xuống tránh ánh mắt tôi. Tôi quá thất vọng, len chân bước về hướng cuối tàụ Đặng Duy Lạc nắm tay tôi kéo lại , ảnh nhứt định không cho tôi rời tàu.
Giờ tử ly này, ai đi ai ở, ai nỡ bỏ ai!
Một chuyến tàu suốt Cũng đành xuôi thôi !
On đã quay lên buồng lái giúp Quí quay máy. Tôi ngồi phịch xuống ghế, đâu mặt với Lạc, phó mặc sinh mạng trong tay Đức Cao Sanh.
Máy nổ, một vừng khói trắng tỏa lên: Máy một rồi máy hai. Hoa tiêu kiểm soát phi cụ, phi kế. Tàu còn trong ụ đậu thì “Đoàng” pháo cộng đã nhắm bắn tới. Không chờ nóng máy, Quý-On vọt ra phi đạo cất cánh khẩn cấp.
Chở nặng phi cơ cần đường dài, chưa đủ lực hổng cẳng Quý-On đã kéo vội, cưỡng ép con tàu bốc lên vì một pick up truck ai đó đã bỏ nằm chắn ngang đường. Con tàu chao đảo dường như bánh đáp đã đụng pick up. Tàu gầm dữ dội, không lên cao nổi, bê bê về phía hangar. Nhìn qua cửa sổ tôi thấy hangar đến gần. Tôi chỉ kịp nói với Đặng Duy Lac vừa đua mắt cho Lạc nhìn ra:
– Niệm Phật đi, Một, hai, ba !
Tất cả vẫn êm rụ Phi cơ vừa vượt khỏi nóc hangar SĐ trong gang tấc. Tôi vừa thở phào chợt thấy có người đang ôm cứng ngang lưng tôi, đầu húc sâu vào bụng tôi. Tôi vội gỡ ra mới biết đó là Thiếu tá Nguyễn Kim Hằng (cựu vô địch bóng bàn). Hằng bẽn lẽn cười nhìn tôi nói:
– Óng là cấp chỉ huy của em, nếu phải chết, em cũng được chết trong lòng của cấp chỉ huy.
Gớm, chí tình thế ! Quý hóa thế ! Tôi nghi ngờ cái “Huynh đệ chi binh” này. Tôi cười nói:
– Chớ không phải cậu muốn mượn đỡ cái bụng mềm mại của tôi làm cushion đỡ cho cái đầu của cậu khỏi bể nếu chẳng may phi cơ kềnh ra đất.
Hằng chữa thẹn:
– Đâu có! Người cứ nghi oan cho em út. Thương Người lắm, thật mà.
Tôi gục gặc:
– Cám ơn, cám ơn ! Hân hạnh cho “qua” quá!
Đặng Duy Lạc nghe mẩu đối thoại yêu nhau chí tình của đôi quân nhân cùng chung hoạn nạn, cười vỗ vai Hằng:
– Thôi được rồi.
Phi cơ vẫn là là bay không cao hơn ngọn cây là bao. Trong phòng lái có tiếng vọng ra:
– Nặng quá, tàu lên không nổi, yêu cầu vứt đồ cho nhẹ.
Tôi lập lại ý trên. Không ai chịu rời tài sản của mình. Người ta thường nói “lấy của che thân” nhưng nơi đây lại “lấy thân che của”! Các cụ thường dạy, gặp cơn nguy đe dọa đến tính mạng thì “bỏ của chạy lấy người”, nơi đây thì “Thà chết còn hơn”!
Tôi chẳng có gì đem theo ngoài nón sắt và aó giáp. Tôi đứng dậy nêu gương, mở cánh cửa nhỏ bên hông tàu nơi thường dùng để thả truyền đơn, ném nón sắt ra ngoài.
Phụt! nón bọc gió, giật vụt bay về phía sau qua cánh đưôi. Tôi thấy quá nguy hiểm, nếu tôi vứt nốt áo giáp, áo bọc gió đập vào đuôi lái, chắc chắn tàu không thăng thiên mà độn thổ đó.
Sau cái nón sắt vụt bay tôi chẳng tha thiết lắm đến cái mời các anh em đồng hành “dzô ta” cùng vất cho nhẹ con tàu. Cứ khỏi ngọn cây, Tàu là là bay qua vị trí Cộng quân thế mà chúng tôi chẳng trúng đạn thù. Có lẽ tụi chúng bắn quá dở nên tàu lặng lờ lấy hướng Côn Sơn là nơi điểm hẹn của Đệ Thất Hạm Đội bốc quân bại tẩu rời khỏi non sông yêu dấu, một cách an toàn.
Côn Sơn đã ẩn hiện trước mắt, tôi bước vội lên phòng lái nhắc khéo On:
– Cẩn thận ! Trước khi đáp, quan sát kỹ xem cờ Vàng hay cờ Đỏ. Láng cháng Mỹ đâu không thấy lại bị “nón cối” mời vào bóc lịch thay nó đó.
Thợ Lái mình chẳng quan ngại xa xôi. Cái làm họ bận tâm không phải “Nón cối” mà là đáp rồi nếu phải cất cánh lại thì thật là Tử vì sân Côn Sơn quá ngắn so với cái quá tải của con tàu.
Lượn một vòng thấp: Phi cơ phe ta đậu đầy, ngổn ngang chiếc dọc chiếc xuôi, hỗn độn vô cùng. Các anh em nhanh chân tới trước chẳng hề nghĩ cho các anh em chậm chân đến sau! Chúng tôi đành quay trở lại bay về đất Mẹ, nhắm SĐ4KQ Bình Thuỷ lướt tới.
Vào Vùng Không lưu, liên lạc đài Kiểm soát, một tiếng vang trong máy: Căn cứ đang bị pháo địch uy hiếp. Tôi đề nghị bay qua UTAPAO, Căn cứ B.52 của KQ chiến lược Mỹ bên Thái Lan. Mấy anh em cấp nhỏ nhao nhao:
– Đi Singapore ! Đi Singapore !
Tôi phản đói và giải thích:
– Chúng ta không nên đi Singapore, Chính quyền Singapore khó tin lắm. Mới ngày qua, một C.130 của SĐ bị đánh cắp trốn qua đó đã bị Chính quyền sở tại bắt giữ, định dẫn độ cả tàu lẫn người về cho VC xử lý hầu làm quà thỏa hiệp. Chỗ bảo đảm nhất là phi trường B.52 vừa dài vừa đủ tiện nghi, an phi bậc nhất và an ninh cũng bậc nhất. Mẽo cũng không đến nỗi quá hèn đem
mình bán cho đối phương.
Tất cả đã thôi lao xao. Tôi hỏi có ai mang bản đồ tiếp cận UTAPAO không vì phòng lái vừa than thiếu bản đồ vùng đó.
Một Trung úy vội lục cặp phi hành lôi ra xấp tài liệu và nói lớn:
– Có đây, đủ cả đây.
Tôi cầm lấy trao cho cơ phi đem lên cho Quí-On nghiên cứu phi trình đồng thời hỏi nhỏ chú em:
– Ở đâu mà sẵn thế?
Chú ta tỉnh bơ trả lời:
– Chúng em cũng định “chuồn” đi nhưng vì phi cơ rơi khi cất cánh nên phải theo chiếc nầy.
– Phi cơ rơi không chết à? Tôi hỏi hơi phi lý vì đã có sao thì đâu còn đối đáp với tôi được nữa.
Chú em cười:
– Không ai chết, chẳng ai què, chỉ rêm mình chút chút!
Đúng vậy, lúc tôi còn thẫn thờ tìm phi cơ ra đi thì Th/sĩ Văn có kéo tay tôi chỉ lên trời, hốt hoảng:
– Coi kìa ! Chiếc phi cơ đang giẫy giẫy như diều đứt dây.
Tôi ngó theo tay chỉ, quả nhiên là chiếc Caribou (có lẽ là chiếc đã bỏ tôi và Văn ở lại) đang bị triệt nâng vụt rơi xuống, bụi cát lầm lên mù mịt.
Tôi ghé tai Văn:
– Chiếc Caribou hồi sáng đó. Nếu mình được đi thì nay đã chung số phận rồi.
Nói xong tôi quay đi nghĩ đến các anh em xấu số đã bỏ tôi sáng nay và giờ đây đã xa tôi thật rồi! Lòng tôi chợt thắt lại, thương cho kiếp người mới đó không còn đó.
Tôi đã lầm. Chẳng một ai xa tôi. Tất cả đã cùng tôi trên chiếc C.47 định mệnh nầy, đang trôi về nơi vô định xa xôi. Bây giờ tôi chợt hiểu vì sao lúc tìm C.47 thoát hiểm tôi chẳng có bao ngoe mà nay sao lại nhiều thế. Thì ra các Yên hùng không gian chưa bị Ngọc Hoàng rũ sổ đang đáp
chuyến bay cuối chầu cùng tôi. Duyên nợ bên nhau đâu dễ dứt!
Còn đang miên man nghĩ đến cái duyên, cái nợ tôi chợt thấy mặt Nguyễn Kim Hằng dính đầy tro lẫn bụi, nhem nhuốc. Tôi ghé tai hỏi nhỏ:
– Cậu cũng trong đám “Bất tử” Caribou đó à?
Hằng gật đầu không đáp.
Thật tình ! Con người sống chết có số. Cái phút nguy hiểm nhất của nghiệp bay là cất và hạ cánh, nếu tay nạn xảy ra lúc đó thì yên trí sẽ được “TRUY THĂNG’.
Thế mà tàu tôi đụng khi cất cánh, Tàu hắn rơi khi hạ cánh vội, chúng tôi vẫn sống nhăn.
Tiếng máy phi cơ nổ đều, con tàu chở “Vịt” (chạy như vịt) bồng bềnh trong gió lướt về không phận Thái Lan. Mọi người đều đều hơi thở, mắt mơ màng hoặc khép kín thả hồn chơi vơi về với tương lai mù mịt, bỗng nhiên cửa phòng lái bật mở, cơ phi hốt hoảng:
– Hồi nãy ai coi xăng ?
– Sao? Tôi bật dậy hỏi ngược. Hết xăng à ?
Cơ phi ú ớ. Tôi liên tưởng đến tàu cạn xăng, nhìn ra ngoài, mênh mông trời nước. Tim tôi thắt lại, chẳng lẽ số mình phải dứt hôm nay! Chợt tôi nhận ra chú cơ phi này là người check xăng sáng nay và đã reo to Mucho, mucho. Tôi chỉ anh và nói :
– Chính anh là người coi xăng mà. Anh đã chẳng bảo với tôi là xăng đầy, sao bây giờ lại sợ cạn. Tàu mới bay có 4 tiếng, cho tôi biết đồng hồ xăng còn chỉ bao tiếng bay nữa. Cơ phi:
– Dạ còn 4 tiếng.
– Thế thì đúng rồi. Tầm bay C.47 là 8 tiếng, nay bay được khoảng 4 tiếng, còn lại 4 tiếng là phải rồi. Tôi ôn tồn giải thích cho Cơ phi. Cơ phi còn cố chày cối:
– Không tin đồng hồ được.
Câu nói này làm nhiều người tháp tùng chuyến bay hoảng hốt, nhớn nháo, phi cơ tròng trành gây khó cho Hoa tiêu điều khiển con tàu. Áp huyết máu tôi phụt cao. Tôi chất vấn Cơ phi:
– Anh làm Cơ phi được bao lâu rồi?
– Bảy, Tám năm. Cơ phi trả lời gọn.
Tôi sùng thêm:
– Tám năm bay Vận tải, không tin vào phi cụ thi tin cái gì!
Chú nhỏ nầy chợt tỉnh, bẽn lẽn quay lên và đóng cửa phòng lái. Đặng Duy Lạc ngó tôi tủm tỉm cười:
– Xin cụ bớt nực, cho đàn Em sống tí.
Lạc tên đúng với người, lúc nào anh cũng lạc quan, tươi cười cả lúc tôi muốn khóc. Suốt sáng qua bao cảnh đái ra cây, cười ra nước mắt mà ảnh cứ bình chân như vại mặt phớt Ăng lê. Có anh này trong những lúc bấn xúc xích, mình cũng mau yên dạ. Tôi vẫn còn thắc mắc về cái không đủ xăng để tới bến, tôi bò lên phòng lái thăm hỏi:
– Còn bao lâu tới Utapao?
– Khoảng hơn tiếng. On trả lời.
Tôi nhẩm tính, dư sức qua cầu. Tôi quay về chỗ ngồi trước mặt Lạc, vỗ đùi anh và bảo:
– Yên trí ! Một giờ nữa đáp.
Yên vị tôi nhắm mắt cố ru hồn cho bớt xao động. Tôi đã thấm mệt với đủ mọi biến cố, căng thẳng tinh thần suốt từ lúc phản đồ mất dạy gây biến. Đang mơ màng chợt thấy Tàu nghiêng cánh, nhìn ra cửa sổ thấy 2 vệt dài trắng xóa song hành lượn dài theo đường bay Tàu mình. Tôi nghĩ mình đã gặp phản lực Thái nghênh tiếp (nói cho oai), nói cho đúng sách vở: nghênh cản. Tôi bước vội lên phòng lái cho rõ sự tình, thì ra tôi sớn sác trông gà hóa cuốc, thấy nước
tưởng trời thấy “out board” tưởng “Jet”. Dẫu sao thì Tàu đã nhập không phận Thái Lan, đất liền đã ló dạng.
Vào vòng không lưu Utapao, Quí-On xin dáp khẩn cấp và báo cho Đài Kiểm soát, phi cơ khi cất cánh có đụng chiếc xe hơi Pick Up, yêu cầu họ quan sát chân đáp. Đài Kiểm soát:
– Looking good.
On-Quí cho Tàu vào vòng cuối, đáp nhẹ. Bánh vừa chạm phi đạo, phi cơ chợt xẹt qua phía trái, rời phi đạo, nhảy chồm chồm như ngựa chứng bên lề đường bay, nghiênh cánh quẹt đất bụi mù.
Tử thần vung lưỡi hái.
Mỹ quốc An phi tung toàn lực tiếp chiến. Đại tá chỉ huy căn cứ dẫn đầu đoàn quân cứu ứng, cứu hỏa, cứu thương đủ bộ, điều quân tuyệt hảo.
Qủy sứ nhà trời nhượng bộ.
Tàu nằm yên xệ cánh.
Quân Mỹ bao quanh dàn chào. Tàn quân ta sửa sang mũ áo.
– Xin mời “Người” xuống trước.

Một tiếng xướng (không biết của ai) trăm miệng hùa.
– Gớm, sao tử tế ! Lúc lên chẳng có lời mời, lúc xuống đương đầu lắp “Verb” thì mời “Người” xuống cho.
Tôi nghĩ nên để Trưởng phi cơ xuống trước cho đúng phép lịch sự. Tôi yêu cấu On xuống trước, On lắc đầu đùn miết cho tôi. Tôi đùn cho Lạc. Lạc đẩy tôi đi. Đùn tới đùn lui chẳng ra cái thể thống gì. Tôi liền bước tới mở cửa cho xong, dùng già dùng dằng xăng phát nổ thiêu sống cả đám lại khổ nữa.
Cửa Tàu vừa mở, Đại tá Mỹ đã trực sẵn đưa tay chào. Tôi trả lễ. Óng ta lịch sự đón tay tôi đỡ xuống, miệng không ngớt xã giao:
– Congratulation, Good landing!
Tôi có đáp chó đâu mà congratulation tôi. Tôi còn bận lo đến cái “không biết ra sao ngày sau” nên chẳng buồn đính chánh:
– Thank you. Any Vietnamese before me ? Anh văn nhát gừng, tôi hỏi ông bạn đồng đẳng lịch duyệt.
– Plenty. Don’t worry!

Người bạn ân tình cứu mạng vội trấn an tôi, đồng thời yêu cầu tôi cho mọi người lên 2 GMC trực sẵn. Tôi yêu cầu đoàn quân bại tẩu, trật tự hàng lối lên xe, cố chứng minh với anh bạn Đồng minh tốt bụng này:

Tuy ta bại nhưng quân ta vẫn còn kỷ cương. Mọi người tuần tự lên xe, trẻ nít trước, phụ nữ sau, bại quân sau chót.

Ai nấy hối hả thì bỗng Th/tá Nguyễn Kim Hằng bước ra khỏi hàng, qùy xụp xuống đất, 2 tay
trước ngực, mặt ngước nhìn trời, mắt nhắm kín, miệng khấn lâm râm. Mỹ ngơ ngác, quân ta ngơ ngẩn nhìn. Chờ cho Hằng xong nghi thức tạ trời, Tôi lại gần hỏi nhỏ:
– Cậu khấn gì vậỵ Trông như cậu đang xin tha mạng.

Hằng nghiêm trang :
– Em qùy cảm tạ Trời Phật đã cứu sống chúng mình vì khi thấy phi cơ nhào ra lề, cà cánh xuống đất Em lo phát nổ. Sợ teo!
Có niềm tin vẫn là liều thuốc an thần. Tất cả đã yên vị trên 2 GMC, Đại tá Mỹ cho lệnh lăn
bánh đưa chúng tôi về nơi tập trung tàn quân không lực (phải, hết xíu quách rồi !)
Xe vừa rời xa con tàu cứu tinh yêu dấu tôi bỗng thấy, thấy mấy Airmen cờ hoa nhẩy vội từ chiếc xe Pick Up vừa xịch đến tay cầm lon sơn xịt lấy xịt để, bôi xóa cờ hiệu và huy hiệu VNCH trên chiếc C.47 kiêu hùng của chúng tôi.
Mỹ làm thế để chủ quyền Thái không bị xâm phạm, không tìm cớ tịch thu phi cơ vì không có bằng chứng phi cơ lạ xâm nhập Thái Lan. Thấy người mà ngẫm đến ta. Mình chạy, không kế hoạch, Mỹ hứng, đầy đủ lớp lang. Người khinh ta là phải!
Tới nơi phải xuống. Tôi uể oải leo xuống tiến về nơi chỉ định, miệng lý nhí chẳng biết có ai nghe:
– Kể từ phút này, Tôi cũng như tất cả, phận ai nấy lo chúc mọi người may mắn!
Bây giờ đã quá chiều, Tôi cảm thấy rã rời, tìm vội một nơi ngả lưng dưới mái “Tent” căng tạm của Không lực Mỹ. Chưa được bao lâu, mọi người chộn rộn, lăng xăng xếp hàng chuẩn bị dùng bữa cơm chiều. Lúc đó tôi mới chợt nhớ suốt đêm hôm trước đến chiều hôm nay
tôi chưa có gì lót dạ.

Tôi không thấy đói. Biến cố dồn dập, liên tục xảy ra không còn thì giờ lo cho cái bao tử. Những nhức nhối, uất nghẹn, ứa gan cho cái tan hàng rã ngũ “Vô duyên” đã đầy ắp lòng tôi làm tôi quên cả đói. Tôi không muốn ăn. Anh em khuyên tôi cố ăn chút ít cho lại sức.
Nuốt “miếng cơm Từ Mẫu” , tôi nghẹn ngào cho thân phận, 25 năm dâng trọn tuổi thanh xuân cho đất nước những tưởng tìm được yên vui cho dân tộc nhưng mộng ước không thành, giờ đây khởi đầu lạc loài nơi đất khách, thật ê chề cho kiếp mình!
Đã 23 năm tôi ôm câu chuyện cất kín lòng mình. Tôi sợ nói ra, buồn nhiều cho bạn, buồn thêm cho tôi, cho anh, cho cả ½ phần dân tộc. Tôi không muốn ai, lúc đó, cả bạn lẫn thù, khinh mình thêm nữa.
– Bí ẩn lịch sử rồi đây sẽ được phơi bầy.
– Chúng ta chỉ là con cờ thí !
– Chỉ buồn, những người cầm vận mệnh đất nước.

Ngày đó cũng như ngày nay, không đủ khôn cũng không đủ khéo để tránh cho dân khỏi khổ, nước khỏi nghèo, tiền nhân khỏi hổ thẹn.


Tuesday, October 15, 2013

Thăm Viếng Côn Đảo - Chị Bảy


Thăm viếng Côn Đảo

Nghĩ tới Côn Đảo, đầu óc tôi như bị kích động để rồi diễn tiến đời tôi từ những ngày tháng của đầu năm 1975 cho tới ngày 30 tháng 4, 1975, như một đoạn phim củ đầy kỷ niệm lo âu ứa lệ tuần tự hiện rỏ lại trong trí nhớ tôi. Côn Đảo đã cưu mang gia đình tôi trong những giờ phút sôi bỏng của đất nước, ơn nầy đã được ghi sâu vào đáy lòng tôi, nên hôm nay tôi trở lại thăm viếng Côn Đảo mà lòng tôi nôn nao như lần đầu tôi trở về Việt Nam ngày nào! Với Côn Đảo tôi không thể dùng từ tham quan mà tôi dùng từ thăm viếng, vì tôi còn nợ Côn Đảo cho tới chết.

Trước 1975 chúng tôi không gọi Côn Đảo mà chúng tôi gọi là Côn Sơn. Thời Việt Nam bị Pháp đô hộ, Côn Đảo còn có tên Côn Nôn (Côn Lôn) do tiếng Pháp Poulo Condore mà ra. Nơi đây người Pháp lập ra nhà tù “Chuồng Cọp” để nhốt những người Việt Nam chống Pháp. Thời Việt Nam Cộng Hoà, nhà tù Côn Đảo được dùng để nhốt tù nhân chính trị, trong đó có nhóm Caravelle.
Nhóm Caravelle. Nhóm Tự Do Tiến Bộ, gọi tắt là Cấp Tiến, do 18 nhân sĩ gồm các ông Trần Văn Văn, Phan Khắc Sữu, Phan Quang Đán…. lập ra để đối lập với Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Ngày 26 tháng 4, 1960 ông Trần Văn Văn và ông Phan Khắc Sữu mặc âu phục chỉnh tề, bất thần đến dinh Độc Lập nhờ quân phòng vệ chuyển bản tuyên cáo đến Tổng Thống Diệm. Sau đó hai ông về khách sạn Caravelle họp báo gồm 18 nhân sĩ, phóng viên trong ngoài nước, đại diện các toà đại sứ. Từ đó nhóm Cấp Tiến còn có tên nhóm Caravelle.

Trong buổi họp ở khách sạn Caravelle, nhóm Cấp Tiến chỉ trích quyết liệt các sai lầm của Tổng Thống Diệm. Nên nhớ lúc ông Diệm ở Mỹ mới về nước, nhóm nầy lúc đầu ủng hộ Thủ Tướng Ngô Đình Diệm truất phế Quốc Trưởng Bảo Đại. 

Nhóm Caravelle bị bắt và bị đày ra Côn Sơn. Một chiếc vận tải hạm của Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà mang mã hiệu Hàn Giang HQ-401 được lệnh chở nhóm ­­Caravelle và một số đông tù binh khác ra nhốt ở Côn Sơn. Rồi có nguồn tin, một phi công khu trục đàn anh của tôi tên Huỳnh Minh Đường được lệnh dội bom chiếc tàu nầy. Anh phi công Đường không dội bom chiếc tàu mà bay thẳng qua Campuchia lánh nạn. Ai muốn tìm hiểu thêm về chiếc vận tải hạm Hàn Giang HQ-401 thì Click Vào Đây để đọc những lời của Ông Võ Văn Sáu, một quân nhân Hải Quân có mặt trên chiếc tàu đêm hôm ấy. 
Mới đây tôi đọc trong internet, ông Hạm Trưởng chiếc tàu chở nhóm Caravelle xác nhận giữa khuya đêm hôm ấy chiếc tàu đang chạy ngoài khơi thì có một chiếc máy bay khu trục mang đầy bom đạn rà sát mở đèn rọi quan sát chiếc tàu rồi bỏ đi. Trời! Dễ sợ quá, nguyên thuỷ thủ đoàn của chiếc vận tải hạm to lớn, không ai làm chính trị mà suýt bị chết oan! Sau nầy tôi về cũng cùng phi đoàn khu trục ấy, tôi có nghe chuyện anh phi công Đường nhưng tôi không quan tâm vì tôi không biết thực hư, cho tới mới đây khi tôi đọc trong internet lời nói của ông Hạm Trưởng, làm tôi thắc mắc.   

Thắc mắc của tôi được giải đáp phần nào! Mới đây tôi có hỏi một anh phi công khu trục đàn anh của tôi cùng phi đoàn và cùng thời với anh phi công Đường. Anh nầy cho tôi biết sau khi anh Đường lái máy bay qua Campuchia, có lần một phi công Mỹ cố vấn của Phi Đoàn bay từ Biên Hoà qua Campuchia thăm anh Đường. Vậy là có bàn tay Mỹ đã cứu mạng bao nhiêu người trong chiếc tàu đêm hôm ấy? Chỉ có anh Đường mới trả lời được câu hỏi nầy! Ôi! Chính trị muôn mặt! Điều trớ trêu là lúc ấy tôi chưa vô Không Quân, nhưng tôi biết rất rỏ nhóm Caravelle! Vì lúc ấy tôi với bồ tèo Thế (Kỹ Sư Air Việt Nam) của tôi, chạy đôn đáo đến các toà đại sứ Anh, Pháp… để đưa thư của nhà cách mạng lão thành Nguyễn Thế Truyền để xin can thiệp thả nhóm Caravelle.
Ba Má của Thế nuôi Cụ Truyền trong nhà, tôi tới chơi với Thế rồi Cụ Truyền rất thương tôi nên tôi giúp Cụ chứ tôi không hề thích làm chính trị. Khi sức khoẻ Cụ Truyền bắt đầu suy yếu vì tuổi già, có lần Cụ nói với tôi Cụ muốn giao tôi cho ông 3 Huy nhưng tôi từ chối và thưa với Cụ tôi chỉ thương Cụ thôi chứ tôi không thích làm chính trị.

Tôi gia nhập Không Quân không lâu thì có đảo chánh lật đổ ông Diệm và ông Diệm, ông Nhu bị giết! Sau khi ông Diệm chết, nhóm Caravelle được thả về Sàigòn và anh phi công Đường cũng rời Campuchia về lại Sàigòn nhưng không ai biết anh Đường ở đâu và làm gì. Sau đó không lâu ông Phan Khắc Sữu lên làm Quốc Trưởng một thời gian.

Anh Đường có hai người em trai cũng là phi công của Việt Nam Cộng Hoà. Từ 1967 cho tới 1975, tôi ở cùng phi đoàn với anh phi công em kế anh Đường và chúng tôi rất thân tình, nhưng tôi không tò mò tìm hiểu những việc không nên biết làm gì, vì chính trị muôn mặt, thời ấy biết nhiều chỉ có mang hoạ vào thân!   
*************

Côn Đảo là một quần đảo nằm ngoài khơi bờ biển Miền Nam Việt Nam. Côn Đảo là một Huyện thuộc tỉnh Bà Rịa. Nếu kéo một đường thẳng từ Sàigòn xuống phía nam, và một đường thẳng từ Cà Mau ra phía đông thì Côn Đảo nằm trên giao điểm của hai đường thẳng nầy. Nói đơn giản hơn,  Côn Đảo nằm cùng kinh độ với Sàigòn và cùng vĩ độ với Cà Mau. Nếu nhìn trên bản đồ, Côn Đảo gần tỉnh Bạc Liêu hơn tỉnh Bà Rịa nhiều!

Côn Đảo gồm có 16 đảo với tổng số diện tích là 76km2. Trong đó Côn Đảo lớn nhất với 51.52 km2.
Nhìn kỷ chử Minh City, ngay dưới chử H của chử Minh có chấm đen, đó là Côn Đảo.

Côn Đảo và các đảo nhỏ.

Tên và diện tích các đảo.

Ngày xưa Phi Đoàn 716 của tôi ở Tân Sơn Nhất, cứ thỉnh thoảng vào cuối tuần, ông Phi Đoàn Trưởng Trung Tá Tuấn lấy máy bay C47 chở cả phi đoàn và gia đình ra Côn Đảo tắm biển trong ngày. Có lần bà xả tôi và vợ con Trung Tá Tuấn cùng đi, bà xả ông Tuấn là em cô cậu ruột với tôi. 

Trước 1975 hầu như bãi biển Miền Nam Việt Nam từ Qui Nhơn trở xuống tới Cà Mau, nơi nào tôi cũng có rà máy bay sát bãi biển để chọc phá các cô tắm biển. Có lần trên bờ biển Vũng Tàu nơi hoang vắng, tôi thấy một cặp nhân tình trẻ đang bắt cặp trên bãi cát, rồi tôi rà máy bay sát trên đầu họ, họ bỏ chạy quên cả lấy áo quần. Lần ấy tôi rất hối hận và tôi thề không bao giờ làm lại lần thứ hai.
Bãi biển Côn Đảo thì khỏi chê. Bãi biển Miền Nam, tôi mê nhất là bãi biển Côn Đảo, thanh vắng, bãi cát sạch trơn và nước biển thì trong xanh, phong cảnh rất hữu tình. Bãi cát dưới nước không lồi lõm và có độ dốc rất ít nên du khách có cãm tưởng như bằng phẳng và sóng biển thì nhẹ nên không nguy hiểm cho người không biết bơi. 

*************

Côn Đảo một k niệm ứa lệ đời tôi. Đầu năm 1975 tôi thỉnh thoảng lên Quận Bù Đăng thuộc Tỉnh Sông Bé ở lại đêm để đi săn nai. Trời! Nai ở Bù Đăng nhiều quá sức, đêm rọi đèn tôi thấy mắt nai nhiều như sao! Trung bình trong vòng hơn một giờ tôi có thể bắn khoảng 6 con nai rồi nghĩ.
Những lần đi săn như vậy, tôi cho tài xế lấy xe jeep dân sự của tôi lái lên Bù Đăng, còn tôi thì nhờ anh em trong phi đoàn lấy máy bay thả tôi xuống phi trường Bù Đăng. Ông Quận Trưởng Bù Đăng là bồ tèo của tôi. Khi máy bay thả tôi xuống phi trường Bù Đăng, thì ông Quận Trưởng theo máy bay về Sàigòn thăm vợ con và ông nói đùa với tôi: “Tôi giao quận cho anh đêm nay”.

Có lần tôi rủ Đại Tá phi công Tuấn em cô cậu với tôi lên Bù Đăng ở đêm đi săn nai. Ông Tỉnh Trưởng Sông Bé nói với ông Quận Trưởng về tôi và ông Tuấn: “Hai ông phi công nầy sẽ chết!”. Nhưng ông Quận Trưởng thì bảo đảm với tôi rằng không sao cả vì ông và VC có hiệp ước rồi, không ai tấn công ai!
Một lần sau khi săn nai ban đêm, tôi nằm ngũ trong khu nhà dân bên đường. Trời! Tôi nghe xe tăng VC chạy rần rần từ Campuchia đi ngang Bù Đăng để vào tỉnh Bão Lộc. Sáng hôm sau tôi gặp ông Quận Trưởng và tôi hỏi:

     -  Xe tăng VC chạy rần rần suốt đêm mà sao anh không báo về Sàigòn?
     -  Tôi có báo mà không ai làm gì hết!

Nghe ông Quận Trưởng nói tôi sợ thất kinh! Thế là tôi về Sàigòn, tôi đi dịch khai sanh hai đứa con tôi ra tiếng Mỹ, rồi tôi cho bà xả tôi đi học may, học nấu ăn để chuẩn bị bỏ Việt Nam chạy! Hai đứa con tôi sanh ở nhà thương Grall nên tôi ra Quận 1 để dịch giấy khai sanh cho con. Tôi nói lý do tôi dịch giấy khai sanh cho con, bà coi phòng dịch giấy khai sanh nhìn tôi tưởng tôi điên! Bà nói:
      -  Chồng tôi là Trung Tá mà tôi không lo. Ông lo quá đáng.

Tôi cười.
Rồi tôi nhờ Dược Sĩ Cỗ Văn Thinh bồ tèo của tôi, trưởng phòng dược phẩm của bệnh viện Cảnh Sát, giới thiệu tôi với Bác Sĩ Th. chủ một viện bào chế thuốc Tây ở Sàigòn để tôi xin làm trình dược viên. (Khi tôi đang viết bài nầy thì như có thần giao cách cãm, Thinh đang ở Paris, sau 38 năm hai đứa tôi thất lạc, bất thần tôi nhận được email của Thinh sau mấy chục năm dò hỏi. Lỉên lạc được Thinh, tôi mừng quá sức. Thinh thúc giục tôi qua Paris gặp Thinh rồi đầu December chúng tôi kéo nhau về VN ăn Tết. Tôi đã mua vé máy bay đi Paris!). Mỗi ngày tôi đi bay hành quân xong, tôi sẽ ghé các tỉnh để đi bán thuốc Tây.

Ông Bác Sĩ chủ viện bào chế thuốc Tây hỏi tôi:
      - Tại sao anh đi bán thuốc?
      - Tôi cần nhiều tiền gấp để chuẩn bị bỏ Việt Nam chạy.
      - Tôi sẽ để anh làm cho anh vui, nhưng tôi nghĩ sẽ không có gì đâu!
      - Tôi chỉ chuẫn bị vậy thôi! Cám ơn Bác Sĩ.

Vậy mà tôi chuẫn bị đúng! Nhưng rốt cuộc tôi chưa bán thuốc Tây được đồng nào vì thời cuộc đất nước biến chuyển nhanh quá sức! Tôi bắt bồ với anh phi đoàn trưởng C7, và tôi cho anh biết những gì tôi nghe thấy, anh bạn tin. 
Vì sợ trở tay không kịp nên hai đứa tôi đồng ý  “chồng đâu vợ con đó!”.  Hai đứa tôi đưa vợ con vô phi đoàn và ở trong văn phòng của anh bạn tôi cả mấy tuần. Có một lần, Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 5 KQ mở cửa phòng thấy hai bà và 7 đứa nhỏ trong phòng, ông đóng ầm cánh cửa và chưởi: "Địt mẹ như thế nầy thì đánh đấm gì nữa!". Rồi ông im lặng bỏ đi và hai đứa tôi nói lén sau lưng ông: "Địt mẹ vợ con Tướng đâu?". Ông nói cho có nói vậy thôi vì vợ con ông đã bỏ xứ đi mất rồi!   

Khi phi cơ địch từ Phan Rang vô dội bom căn cứ Tân Sơn Nhất và căn cứ Tân Sơn Nhất được lệnh đóng cửa, mọi sự ra vô căn cứ tuyệt đối cấm. Nếu giờ nầy mà vợ con tôi còn ở nhà thì tôi chịu thua và đời tôi coi như tan nát! Tôi mừng quá sức, đó là sáng 28 tháng 4, 1975 rồi tối 28 tháng 4 Không Quân Tân Sơn Nhất có chương trình di tản vợ con đi Côn Sơn. Vợ con của hai đứa tôi cũng được di tản đi Côn Sơn.
Căn cứ Không Quân Tân Sơn Nhất bị mưa hoả tiển. Đêm 28 tháng 4, 1975 khi cuộc di tản vợ con đi Côn Sơn xong thì đến khuya, căn cứ Tân Sơn Nhất chịu một trận hoả tiển của địch bắn vào như mưa!

Căn cứ Không Quân Tân Sơn Nhất bị tan hàng! Tôi có linh cảm Không Quân Tân Sơn Nhất sẽ bị tan hàng sáng nay, đó là sáng 29 tháng 4, 1975. Tôi nói với anh bạn: “Hai đứa mình theo dõi Đại Tá Không Đoàn Trưởng, khi ổng lên xe jeep thì hai đứa mình cũng lên xe”. Anh bạn đồng ý.
Đúng 9 giờ sáng, Đại Tá Không Đoàn Trưởng lên xe jeep thật. Tôi và anh bạn lật đật chạy ra xe jeep của anh bạn. Ông Đại Tá nhìn hai đứa tôi rồi chưởi: “Địt mẹ đi đâu đó?”. Chúng tôi làm thinh và lòng tôi tê tái!

Tôi và anh bạn bị lạc nhau. Khi hai đứa tôi chạy ra xe, thì bất thần, anh quyền phi đoàn trưởng của tôi (anh Phi Đoàn Trưởng chính thì bay trốn đi Phi Luật Tân trước rồi!) nổi điên chỉa súng M16 vào hai đứa tôi và hét to: “Tụi bây chạy à, tao bắn”. Anh bạn tôi nói: ”Thằng L. là VC, chạy Thái ơi!” Hai đứa tôi bỏ xe chạy bộ, mỗi người mỗi ngã và hai đứa tôi lạc nhau từ đó. Thật ra thì anh quyền phi đoàn trưởng của tôi, tối ngày cứ ôm rượu nhậu rồi giờ chót vợ con anh còn kẹt ở nhà nên anh nổi điên!  
Ông Đại Tá Không Đoàn Trưởng bị anh binh nhì bắn doạ.

Khi ông Đại Tá lái xe jeep ra bãi đậu máy bay thì ông bị anh binh nhì gác máy bay bắn doạ dưới đường. Viên đạn mà anh binh nhì bắn dội ngược lên trúng bể đầu gối một anh phi công trẻ đang đi trên đường, anh nằm rên la, nhưng đâu có ai cứu anh vì bác sĩ và nhà thương đâu còn nữa mà cứu! Trong khi đó ông Đại Tá sợ quá, quay đầu xe jeep chạy hướng khác để ra bãi đậu máy bay, còn tôi thì đi bộ từ từ tới nói chuyện với anh binh nhì gác máy bay. Tôi hỏi:
       - Tại sao em bắn?
       - Tôi được lệnh không cho ai lấy máy bay.
       - Tôi cho em biết sếp của em chạy hết rồi. Em không tin thì bóc máy lên gọi coi có ai trả lời không.

Anh binh nhì bóc máy gọi hoài và không thấy ai trả lời, tôi nói tiếp: 
      - Em có hai chọn lựa, hoặc là lên máy bay đi với anh, hoặc là bỏ súng về nhà. Em ở đây thì địch quân tràn vào bắt em.

Anh binh nhì khóc và nói: “Em về nhà”. Tôi đi bộ ra bãi đậu máy bay C7 thuộc phi đoàn của anh bạn tôi nhưng tôi không thấy anh bạn đâu. Sau cùng tôi lên một chiếc C7 do hai anh phi công trẻ lái. Vì anh binh nhì bắn doạ nên chiếc máy bay C7 mà tôi bước lên trống trơn, có khoảng 20 người trong khi chiếc máy bay nầy có thể chứa trên 30 người.
Xuống phi trường Côn Sơn tôi gặp lại bà xả và hai con. Gặp tôi bà xả khóc sướt mướt và nói: “Đêm qua em nghe trong radio của ông cảnh sát gác phi trường, rằng căn cứ Tân Sơn Nhất bị pháo suốt đêm. Em sợ anh chết nên em khóc suốt đêm, đâu có ngũ được chút nào!”. Tôi ôm vai bà xả xiết mạnh. Rồi tôi gặp vợ con anh bạn, chị hỏi tôi:
      - Ảnh đâu anh Thái?
      - Hai đứa tôi chạy rồi lạc nhau. Nhưng chị yên tâm, vợ chồng tôi đâu thì chị đó nhe.

Chị đồng ý. 

Trong khi đó, sau khi thất lạc với tôi, anh bạn của tôi sáng hôm ấy anh nhảy lên chiếc máy bay C130. Anh trưởng phi cơ của chiếc C130 nầy bay thẳng qua Thái Lan mà không ghé Côn Sơn. Lúc bây giờ anh phi công nào giựt được chiếc máy bay thì đương nhiên anh phi công đó toàn quyền muốn bay đi đâu cũng được, không còn ai chỉ huy ai, cấp bực quân đội lúc bây giờ không còn giá trị!

Anh bạn của tôi bị đưa thẳng qua Thái Lan, trong khi đó vợ con anh thì ở Côn Sơn. Điều may mắn cho anh bạn là Chị và 5 đứa con gặp anh lính đ tử ruột của anh trong phi đoàn, nên anh lính nầy phụ Chị lo cho các con của anh. Nhờ vậy mà tôi có thì giờ lo cho vợ con tôi. 

Đêm hôm đó 29 tháng 4, 1975 gia đình tôi ngũ ở bãi đậu phi cơ của phi trường Côn Sơn, dưới cánh chiếc máy bay C130, còn những gia đình khác sợ pháo kích nên họ trốn đâu mất hết. Tôi sợ đêm khuya máy bay cất cánh mà tôi không hay, nên tôi chấp nhận hoặc đi hoặc chết và tôi liều mạng ngũ dưới cánh máy bay.

Ăn con gà luộc để đời. Lúc bây giờ trong túi áo bay của tôi còn rất nhiều tiền Việt Nam. Tôi hỏi anh lính Cảnh Sát gác phi trường:

- Nhà anh có nuôi gà không?
- Dạ có.
- Anh về nhà luộc cho tôi một con gà, tôi cho anh 200 ngàn đồng, chịu không?
- Dạ chịu.

Anh lính Cảnh Sát bỏ phiên gác, chạy về nhà luộc gà cho tôi. Anh đem ra con gà luộc. Tôi kêu bà xả lại ăn, nhưng bà xả nhớ cha nhớ mẹ khóc thút thít không ăn. Hai con nhỏ 4 và 2 tuổi thì đang ngũ. Tôi ăn con gà luộc một mình dưới cánh máy bay để nhớ đời, vì lúc bây giờ tôi nghĩ tôi sẽ không bao giờ còn cơ hội trở lại Việt Nam thân yêu.

Tôi ăn con gà luộc để đời và mắt tôi ứa lệ! Nhưng tôi vẫn thấy ngon vì cả ngày tôi có ăn gì đâu!

Sáng ngày 30 tháng 4, 1975 ông Cảnh Sát bảo các ông Không Quân đi vì ông Dương Văn Minh đã đầu hàng, và họ được lịnh thả tù. Nghe thả tù, chúng tôi không ai bảo ai, gở lon và lên đạn cây súng M16. Tù VC ở Côn Sơn rất đông.

Lính Không Quân ở phi trường Côn Sơn nổi loạn. Vì Không Quân và gia đình quá đông, máy bay thì giới hạn. Chúng tôi quyết định bà nào có chồng thì đi, không chồng thì ở lại. Các bà không chồng la ó phản đối, nhưng chúng tôi không làm sao hơn được. Riêng chị vợ của anh bạn tôi, may mà có anh lính đtử ruột của anh đứng ra nhận làm trưởng gia đình nên tạo sự dễ dàng cho chính tôi. Các anh lính Không Quân nổi loạn và hét lớn:

- Các ông phi công bỏ chúng tôi lại thì chúng ta cùng chết, không một ai đi!  

Lúc bây giờ phi công trực thăng ở Côn Sơn tôi quen khá nhiều. Tôi lên tiếng giải quyết:

- Các anh lính bình tỉnh. Tôi sẽ nhờ các anh bay trực thăng, đưa các anh lính ra hạm đội Mỹ rồi tụi tôi mới đi, các anh chịu không?
- Chịu.

Vậy là tôi giải quyết ổn thoả với các anh lính, còn các bà không chồng thì chúng tôi chịu thua. Trong khi đó các anh phi công bị đưa thẳng qua Thái Lan, họ đòi lấy máy bay về Côn Sơn đón vợ con. Nhưng Mỹ không cho lấy máy bay, vì máy bay lúc bây giờ đã được xoá cờ Việt Nam Cộng Hoà và sơn cờ Mỹ lên rồi. Tuy nhiên Mỹ hứa sẽ liên lạc với hạm đội, để đưa trực thăng vô đón hết những ai trên Côn Sơn mà muốn đi. Đúng như lời hứa, hạm đội đã đón hết những ai trên Côn Sơn mà muốn đi. Nghĩ đến điều nầy làm tôi sợ thất kinh, vì nếu tôi bị đưa thẳng qua Thái Lan thì tôi bảo đảm bà xả tôi sẽ dẫn hai con tôi về Sàgòn, vì bà xả nghĩ tôi đã chết vì pháo kích, hơn nữa cha mẹ anh em bà xả đang ở nhà tôi ở Sàigòn. Dễ sợ quá!

Xế chiều ngày 30 tháng 4, 1975 gia đình tôi và vợ con anh bạn đã có mặt ở căn cứ Không Quân Utapao của Mỹ ở Thái Lan. Anh bạn và vợ con xum họp tại đây. Không Quân Mỹ đã trảỉ nệm và dọn đồ ăn thức uống sẵn trong hangar rộng mênh mông để tiếp đón chúng tôi. Gia đình tôi nằm nghĩ không lâu thì chúng tôi được đưa đi đảo Guam bằng máy bay vận tải khổng lồ của Không Quân Mỹ. 
   
************* 

Thăm viếng Côn Đảo ngày thứ 1. 

Đúng 8 giờ sáng tôi có mặt ở phi trường Tân Sơn Nhất để nhập đoàn du khách 19 người để tour lo thủ tục lên máy bay đi Côn Đảo. Rồi 9:30 phút sáng máy bay cánh quạt chở đoàn du khách cất cánh và mất 45 phút bay thì máy bay đáp ở phi trường Cỏ Ống Côn Đảo.

Tour guide đang làm thủ tục lên máy bay ở phi trường Tân Sơn Nhất. 

Xuống phi trường Côn Đảo, bãi đậu máy bay so với ngày xưa không thay đổi nhiều, tôi nhận ra ngay bãi đậu máy bay ngày xưa, nơi mà gia đình tôi ngũ dưới cánh máy bay đêm 29 tháng 4, 1975. Nơi đây tôi đã ăn con gà luộc giữa đêm khuya để vĩnh biệt Việt Nam thương yêu, trong khi đó bà xả tôi ngồi khóc thút thít vì nhớ cha nhớ mẹ và hai con nhõ của tôi thì đang ngũ say. Trời! Kỹ niệm ứa lệ nầy làm uất nghẹn lồng ngực tôi và tôi nhớ thương bà xả quá sức, tôi cố cầm nước mắt nhưng không được nữa rồi! Nước mắt tôi ràn rụa, có cô trong đoàn trông thấy và hỏi tôi: 

- Anh sao vậy?
- Cám ơn cô, tôi bị bụi vô mắt!

Trong đoàn đâu có ai hiểu được tâm trạng của tôi là đi tìm kỷ niệm chứ không phải đi tham quan! Kỷ niệm giờ đây tôi đã gặp, chuyến thăm viếng Côn Đảo của tôi tới đây có thể được coi như đủ rồi, tôi có thể trở về Sàigòn. Nhưng không được, tôi phải cẩn thận không khéo người trong đoàn tưởng tôi điên nên tôi cố nén lòng bình thản bước theo đoàn lên xe để vô phố.

Bãi đậu máy bay ở phi trường Côn Đảo, nơi mà gia đình tôi ngũ đêm 29 tháng 4, 1975.

Từ phi trường vô phố khoảng 15 km, xe đưa đoàn thẳng vô Côn Đảo Resort để cất hành lý và ăn trưa.

Côn Đảo Resort.

Ăn trưa xong, tour cho đoàn lên phòng nằm nghĩ đến 2 giờ chiều thì tour cho đoàn đi tham quan. Vì Côn Đảo quá nhỏ nên tham quan Côn Đảo 3 ngày hai đêm thì quá rộng rải thì giờ, nên trưa nào tour cũng cho đoàn nghĩ trưa, tôi cảm thấy rất thư giãn.

Tham quan trại tù. Đúng 2 giờ chiều tour cho đoàn tham quan trại tù. Trại tù đầu tiên tour cho đoàn tham quan là trại tù Phú Hải.   

Cổng vào trại tù Phú Hải.

Bên trong trại tù Phú Hải.
Đây là gốc cây Bàng, Côn Đảo có rất nhiều cây Bàng, và dân lấy hột Bàng chẻ ra để lấy nhuỵ bên trong rồi rang với muối hoặc đường, họ bày bán hột Bàng rang khắp nơi. 

Câu lạc bộ trong trại tù Phú Hải.

Bịnh xá trong trại tù Phú Hải.

Phòng ăn trong trại tù Phú Hải.

Nhà thờ trong trại tù Phú Hải.

Giảng Đường trong trại tù Phú Hải.

Sau khi tham quan trại tù Phú Hải, tour đưa đoàn tham quan traị tù chuồng cọp. Vì mấy ngày trước khi chúng tôi tới Côn Đảo, trời mưa trên Côn Đảo mấy ngày liền, nên đường vào trại tù chuồng cọp bị ngập lụt, chúng tôi không vào được.  

Tham quan An Sơn Miếu. An Sơn Miếu là nơi thờ bà Hoàng Phi Yến, thứ phi của chúa Nguyễn Ánh.

Năm 1783 bị quân Tây Sơn truy sát, chúa Nguyễn Ánh đem vợ con và 100 gia đình chạy ra đảo Côn Sơn (Côn Đảo) cùng dân sở tại lập ra 3 làng là An Hải, An Hội và Cỏ Ống.
Muốn đánh bại quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh tính chuyện cầu viện quân Pháp và định gửi hoàng tử Cảnh sang cầu viện. Thứ phi (Hoàng Phi Yến) của Chúa can rằng “Việc đánh nhau với Tây Sơn là chuyện trong nhà, thiếp nghĩ Chúa công không nên nhờ ngoại bang, nếu thắng được Tây Sơn cũng chẳng vẻ vang gì mà e còn lắm điều tiếng rối rắm về sau”. Vì lời khuyên này, chúa Nguyễn cho rằng thứ phi thông đồng với quân Tây Sơn nên tức giận xử tội chết.
Nhờ có quan đô đốc Ngọc Lân can gián và lúc đó hoàng tử Hội An hay hoàng tử Cải (con của bà) còn quá nhỏ nên chúa Nguyễn hạ lệnh tống giam bà trong một hang đá trên hòn Côn Lôn nhỏ (nay gọi là hòn núi Bà). Lấp kín cửa hang bằng những tảng đá lớn, chỉ để một ít bánh nếp và một chum nước lã đủ sống chừng nửa tháng. Vừa nhốt bà xong, chúa Nguyễn nghe tin quân Tây Sơn sắp đánh ra đảo. Chúa Nguyễn vội vàng cùng tuỳ tùng xuống thuyền chạy về đảo Phú Quốc. 
Hoàng Tử Cải bị vua cha túm quăng xuống biển chết. Khi thuyền nhổ neo để chạy về Phú Quốc, Hoàng tử Cải không thấy mẹ bèn hỏi, có người tiết lộ mẹ của Hoàng tử bị giam cầm trên đảo. Hoàng tử khóc rống lên kêu gào, đòi cha cho mẹ cùng theo, hoặc là để mình ở lại với mẹ. Nguyễn Ánh tức giận đã túm đứa con vô tội ném xuống biển. Hoàng tử Cải chết, thi hài dạt vào bãi san hô và được dân làng Cỏ Ống chôn tại khu rừng gần bãi Đầm Trầu rồi lập miếu thờ ngay trước mộ.
Bà Phi Yến cũng được dân làng giải thoát khỏi hang đá và cho bà biết sự tình về Hoàng tử. Mọi người cùng nhau giúp bà dựng một ngôi nhà ngay bên mộ Hoàng tử Hội An để bà chăm sóc mộ phần đứa con xấu số. Tên tục của bà là Lê Thị Răm, Hoàng tử Hội An tên riêng là Cải nên người bấy giờ đặt ra câu hát:
“Gió đưa cây Cải về trời
Rau Răm ở lại chịu đời đắng cay”

Thời gian này, bà có sáng tác một bài thơ và được truyền miệng đến ngày nay:
“Đốt nén hương thề
tạ chúa công
Can vua nên nỗi tội thông đồng
Ngai vàng một thuở
ngồi chưa vững
Bia đá ngàn năm vết vẫn còn
Máu chảy ruột mềm
đau phận thiếp
Nồi da xáo thịt thoả tình ông
Sông sầu, núi thảm hoa mờ lệ
Đã khóc cho con
lại khóc chồng”
Miếu thờ Hoàng Tử Cải rất gần phi trường và nằm trên đường ra biển Đầm Trầu.

Mộ Hoàng Tử Cải ngay sau lưng miếu.

Thứ phi Hoàng Phi Yến tự vẫn để vẹn toàn danh tiết. Vào ngày Rằm tháng Bảy năm Ất Hợi (1785), ban hương làng An Hải bên cạnh có cuộc đàn chay lớn, muốn cho buổi lễ phước thiện thêm long trọng, ban hội tế cử bô lão và phu kiệu qua làng Cỏ Ống xin được thỉnh, rước đức phi về dự. Dân làng dành cho bà một gian phòng đặc biệt để nghỉ ngơi. Năm ấy bà mới 24 tuổi, nhan sắc đang thời lộng lẫy, có tên đồ tể là Biện Thi liếc trộm dung nhan của bà đã không ngăn nổi tà dục. Đêm đó, hắn lén chui vào phòng bà toan giở trò xằng bậy. Nhưng hắn vừa chạm đến cánh tay thì bà đã giật mình, tri hô lên. Tức thì tên Biện Thi bị dân làng bắt trói.
Tuy dứt tình với chúa Nguyễn, song bà vẫn giữ vẹn mình trong sạch, bà cho rằng cánh tay ấy đã bị dơ dáy liền chặt bỏ và nhờ người mang chôn nhưng vẫn còn thấy tủi nhục. Đêm đó, thừa lúc mọi người không để ý, bà đã thắt cổ tự tử để vẹn toàn danh tiết. Hay tin, dân làng Cỏ Ống nổi giận với đủ thứ gậy gộc, giáo mác kéo sang làng An Hải buộc dân làng An Hải phải làm cho bà... sống lại, bằng không họ sẽ tiêu diệt cả làng.
Nhờ sự dàn xếp khôn ngoan của quan Hải trấn, dân làng Cỏ Ống mới bớt cơn thịnh nộ với cách xử lý là: Làng An Hải phải làm heo tạ tội và nộp tên Biện Thi cho làng Cỏ Ống toàn quyền định đoạt. Số phận đã an bài cho Đức bà nằm xuống ở làng An Hải nên cũng thuận theo ý trời để thi hài Đức bà lại cho dân làng An Hải lo an táng và lập miếu thờ, hàng năm cúng bái có sự tham gia của giới chức và dân làng Cỏ Ống.

Sau khi an táng thi hài của bà, tên Biện Thi cũng bị xử tội chết.
Năm 1958, Côn Đảo trở thành tỉnh Côn Sơn. Ông trưởng ty ngân khố Côn Sơn là Nguyễn Kim Sáu đã xem lại “Sử lược Côn Đảo”, thấy có một người phụ nữ Việt Nam “Trung trinh tiết liệt” đã bỏ mình tại đây, bèn đề nghị trích một khoản tiền trong quỹ phúc lợi của tỉnh để xây dựng An Sơn Miếu, thờ bà Phi Yến cho được khang trang như ngày nay.
Miếu thờ thứ phi Hoàng Phi Yến.

Tham quan An Sơn Miếu xong, tour chấm dứt tham quan ngày thứ 1 và tour cho đoàn về Resort nghĩ để chờ ăn cơm tối.
Chợ đêm Côn Đảo. Ăn cơm tối ở Resort xong, tôi nôn nóng đi tham quan chợ đêm Côn Đảo vì tôi đã đi chợ đêm Phú Quốc. Chợ đêm Phú Quốc bán hải sản tươi tràn ngập và vui thấu trời đất. Nhưng chợ đêm Côn Đào làm tôi thất vọng!
Tôi rủ vài người trong đoàn đi chợ đêm Côn Đảo. Tour guide cho biết, Côn Đảo không có cướp giật, nên chúng tôi đi bộ từ Resort tới chợ đêm khoảng 1.5 km. Có những khúc đường không có đèn tối om nhưng chúng tôi không lo sợ. 
Trời! Chợ đêm gì mà có vỏn vẹn 5 lều nhậu bên lề đường, và khách ăn nhậu thì lưa thưa vài người, dù rằng tốí nay là tối Thứ Sáu cuối tuần! Tuy nhiên chúng tôi cũng dừng chân kéo ghế ngồi ở quán ốc. Trong toán nhậu của tôi có hai cô và một anh chàng người Mỹ gốc Mễ Tây Cơ. Khi tôi kêu một dĩa ốc Mỡ xào me, một dĩa ốc Hương nướng, một dĩa ốc Hương hấp, hai dĩa Nghêu hấp xả. Nhìn thức ăn toàn ốc, anh Mễ le lưỡi có vẻ lo sợ. Nhưng khi anh Mễ ăn ốc Hương và Nghêu, anh ăn say mê!
Ăn ốc uống hai chai bia, tôi ngà ngà say, nên chúng tôi kêu taxi về Resort. Taxi chạy dọc theo biển cho chúng tôi tham quan bờ biển Côn Đảo về đêm. Về đêm đường phố Côn Đảo lâu lâu tôi mới thấy chiếc xe hơi hoặc xe gắn máy, người đi bộ về đêm thì ít hiếm như xe cộ! Nói chung về đêm, nếu du khách đủ cặp thì tuyệt vời vì bờ biển không khí trong lành yên tịnh hữu tình, còn như du khách lẻ loi đơn độc thì cắn lưỡi vì buồn thúi ruột!    
Ăn ốc ở chợ đêm Côn Đảo.

Thăm viếng Côn Đảo ngày thứ 2.

Theo chương trình, ngày thứ 2 của tour chúng tôi sẽ tắm biển Đầm Trầu và ăn trưa hải sản nướng ở bãi biển Đầm Trầu. Nhưng trước khi chúng tôi đến, Côn Đảo bị mưa mấy ngày liền, nên anh tour guide lo sợ nước ngập và xe không vào bãi biển Đầm Trầu được. Anh tour guide đề nghị bỏ tắm biển Đầm Trầu thay vào đó tham quan viện bảo tàng, nhưng đa số du khách không đồng ý, vì qua internet chúng tôi biết ngày mai trời nắng tốt, không còn mưa. Sau cùng anh tour guide phải theo đúng như chương trình để đưa chúng tôi đi tắm biển Đầm Trầu.

Bãi biển Đầm Trầu là một nơi mà tôi không thể thiếu trong chuyến đi nầy. Vì bãi biển Đầm Trầu nằm ngay đầu phi đạo của phi trường Côn Đảo, nơi mà ngày xưa ông Phi Đoàn Trưởng 716 Trung Tá Nguyễn Anh Tuấn thường dùng phi cơ C47 chở cả phi đoàn và gia đình ra đây tắm biển trong ngày cuối tuần. Có lần tôi và bà xả tắm ở đây, và đó là lý do tôi muốn thăm viếng lại biển Đầm Trầu trong chuyến đi nầy.

Biển Đầm Trầu. Biển Đầm Trầu có bờ biển hình như vành móng ngựa với những dãy núi cao, nên nơi đây là chổ trốn bão lý tưởng cho tàu bè. Bãi biển Đầm Trầu cát vàng sạch sẽ dễ thương, nước biển thì trong như gương. Tôi đi nước biển tới bụng mà tôi vẫn nhìn thấy bàn chân tôi rỏ ràng. Sóng biển thì êm như mặt hồ.

Bãi biển cát vàng sạch sẽ quá dễ thương!

Bờ biển Đầm Trầu.
Nước biển trong như gương, nên nhìn thấy cát gợn sóng dưới đáy.

Nhìn kỹ ngay giửa ở xa sẽ thấy bờ cement, đó là đầu phi đạo phi trường Cỏ Ống Côn Đảo nằm ngay trên bãi biển Đầm Trầu.    

Nước biển trong như gương, nên nhìn thấy chân tay tôi dưới nước.

Nước biển trong như gương, nên nhìn thấy lá cây trên cát dưới nước sâu.

Bếp nướng cá, mực, bò, gà, chuẩn bị cho du khách ăn trưa trên bãi biển. 

Sau khi tắm biển và ăn trưa ở biển Đầm Trầu, tour cho đoàn về Resort nghĩ trưa để chiều tham quan tiếp.

Tham quan chùa Vân Sơn. Trên Côn Đảo không có nhà thờ Công Giáo, không có thánh thất Cao Đài mà chỉ có ngôi chùa Phật Giáo duy nhất Vân Sơn.

Chùa Vân Sơn. Chùa được xây dựng năm 1964, nhưng trong một thời gian dài chùa không có người trông nôm hương khói, nên chùa bị hư hại theo thời gian. Với sự quan tâm của chùa Vĩnh Nghiêm và sự đóng góp thành tâm của Phật Tử, chùa Vân Sơn vừa được xây dựng lại và mới khánh thành. Ngày tôi đến chùa, chùa có Thầy Trù Trì và hương khói nghi ngút.

Chùa Vân Sơn nằm trên núi khá cao, tôi phải leo 200 bậc thang thẳng dốc và tôi ngừng thở không biết mấy lần.

Chùa Vân Sơn trên núi cao.

Chùa Vân Sơn.

Bàn thờ Phật ở Chánh Điện.

Sau khi tham quan chùa Vân Sơn, tour cho đoàn tham quan Cảng Bến Đầm. Cảng Bến Đầm được núi cao vây kín xung quanh và có lối ra biển duy nhất rộng và rất sâu, nên Cảng Bến Đầm là nơi trốn bảo lý tưởng nhất. Nhưng cảng nầy không đủ lớn để chứa hết tàu ghe ở Côn Đảo, nên khi có bảo lớn một số tàu ghe phải trốn ở biển Đầm Trầu.

Cảng Bến Đầm được núi cao vây kín xung quanh.

Tàu đưa du khách từ Vũng Tàu đến Côn Đảo, cập bến ở Cảng Bến Đầm.

Đi uống cà phê 5 sao. Sau khi cho đoàn tham quan Cảng Bến Đầm, tour cho đoàn về Resort nghĩ để chờ ăn tối. Ăn tối xong, tôi dự trù đi ngũ sớm vì lúc sáng tôi tắm biển mệt quá, nhưng anh taxi chở tôi từ chợ đêm về Resort đêm qua, nhắn tin rủ tôi đi uống cà phê ở hotel 5 sao. Tôi hỏi trong đoàn ai muốn theo tôi đi uống cà phê 5 sao, trời! ai cũng muốn theo tôi nhưng tôi chỉ nhận 6 người vì taxi chỉ có 7 chổ.

Uống cà phê ở hotel 5 sao. Tôi không ngờ ở Côn Đảo có hotel 5 sao, nên tôi muốn đến tham quan cho biết. Hotel nầy rất sang trọng, giá phòng cao nhất mỗi đêm là 1100USD. Tôi thắc mắc không biết khách của khách sạn 5 sao nầy là người VN thuộc giai cấp nào! Vì phòng ngũ ở cách xa chổ uống cà phê và hơn nữa đêm tối nên tôi không trông thấy xa được, tôi chỉ thấy vài người da trắng ngồi uống cà phê gần chúng tôi. Những phòng quanh chổ uống cà phê là phòng có salon và giường rất sang trọng chắc là để cho các cô làm massage cho du khách.

Các người theo tôi, nhìn menu thấy giá tiền ly cà phê 5 sao, ai cũng le lưỡi vì mắc quá! Giá tiền 1 ly cà phê là 115000VND, giá tiền 1 ly ice cream là 75000VND. Thật ra cà phê ở Terrace góc Pasteur và Lê Lợi mà tôi thường uống cũng 60000VND rồi. Khi uống cà phê xong, một cô trong đoàn kêu ly nước trà uống tráng miệng. Cô tiếp đải cho biết giá ly nước trà là 130000VND, mắc hơn ly cà phê, chắc là loại trà xanh đặc biệt. Cô gọi ly nước trà, nghe giá ly nước trà 130000VND, cô sợ thất kinh và lật đật cancel order! Chúng tôi nhìn nhau ngơ ngác vì chúng tôi không ngờ ly nước trà mắc hơn ly cà phê!

Chuyến đi uống cà phê 5 sao rất vui. Từ Resort đến hotel 5 sao, taxi phải lên núi và đi rất xa. Đường đi tối om, thỉnh thoảng chúng tôi thấy heo rừng và chồn, ai nấy lo sợ khi họ nghĩ đến nếu họ phải đi bằng xe gắn máy! Chúng tôi vui đùa đã luôn. 

Uống cà phê 5 sao.
            
Thăm viếng Côn Đảo ngày thứ 3. Ăn sáng trong Resort xong, tour đưa đoàn ra chợ Côn Đảo để mua sắm. Mua sắm xong tour đưa đoàn lên phi trường để về lại Sàigòn trong chuyến bay lúc 11 giờ sáng.  


Chợ Côn Đảo.
  
Nói chung chung về chuyến thăm viếng Côn Đảo. Côn Đảo không xa lạ với tôi, vì trước 1975 phi đoàn 716 của tôi thường lấy C47 bay ra Côn Đảo tắm biển trong ngày cuối tuần. Lúc bây giờ tỉnh trưởng Côn Sơn là Trung Tá Vệ, ông Vệ là bồ tèo của Trung Tá Tuấn phi đoàn trưởng 716.

Dân số và xe cộ ở Côn Đảo rất thưa thớt. Ở Côn Đảo không hề có chuyện kẹt xe. Côn Đảo có không khí thật trong lành và khung cảnh nên thơ yên tịnh. Côn Đảo có dòng sông nước ngọt ngầm và điện đầy đủ, không bao giờ bị cúp điện. Tôi nghĩ Côn Đảo là nơi tịnh dưỡng cho người già rất lý tưởng nếu vấn đề y tế ở đây có đầy đủ.

Đời sống ở Côn Đảo rất an toàn và mua bán không lừa lọc. Côn Đảo không có trộm cướp. Tour guide cho biết nếu du khách đậu xe gắn máy đâu đó và để chìa khoá trong xe, lúc sau trở lại thì bảo đảm xe còn nguyên chổ củ. Giá cả hàng hoá ở Côn Đảo, người bán hàng không nói thách và giá tiền cùng món hàng ở các tiệm không sai biệt nhiều nên du khách đừng trả giá mất công.

Ngoài những di tích lịch sử như nhà tù, miếu Thứ Phi Hoàng Phi Yến, miếu Hoàng Tử Cải, Côn Đảo còn có mộ bà Võ Thị Sáu.

Mộ bà Võ Thí Sáu. Bà Võ thị Sáu là người Bà Rịa, theo Việt Minh chống Pháp. Bà bị Pháp bắt và bị đưa ra Côn Đảo xử tử năm 1952 lúc bà 19 tuổi. Mộ bà Võ thị Sáu là một vấn đề tâm linh, mọi người xa xôi như Hà Nội và khắp nơi trong nước Việt Nam đổ xô về Côn Đảo để khấn vái cầu xin bà Võ thị Sáu. Du khách thường đến mộ bà Võ thị Sáu khấn vái vào nữa đêm và họ đi từng đoàn. Trong đoàn của tôi có 5 người đến từ Hà Nội với chủ yếu là khấn vái mộ bà Võ Thị Sáu.  tth

Click Vào Đây - Để xem thêm hình. Click vào hình để xem hình lớn.