Thiếu nữ Việt Nam

Thiếu nữ Việt Nam
quá dễ thương

Thursday, March 31, 2011

Hà Giang, người đàn bà hiếm có - Phạm Tín An Ninh

Tình cờ tôi đọc một truyện buồn qua email của anh Bình Nguyễn một cựu Sĩ Quan Hải Quân VNCH. Câu chuyện tình quá dễ thương của một chàng phi công làm hoe mắt tôi. Sau đây là câu chuyện: tth

Hà Giang, người đàn bà hiếm có

1-

Mallorca, một hòn đảo du lịch nổi tiếng của Tây Ban Nha, nằm trong quần đảo Balearic. Trước khi đến đây, vì nghĩ là đảo, nên tôi tưởng chỉ có rừng núi và biển cùng một vài làng mạc hay khu phố nhỏ. Nhưng tôi rất ngạc nhiên khi phi cơ đáp xuống phi trường Palma rộng lớn, kiến trúc tân kỳ, sang trọng còn hơn nhiều phi trường quốc tế khác mà tôi đã từng đi qua. Palma là thủ phủ tráng lệ của Mallorca, nằm trên một dãy đồi cao nhìn xuống biển xanh. Đặc biệt khu nhà thờ Cathedral nằm bên cạnh giáo đường Mussulman, gồm những kiến trúc độc đáo, nổi tiếng theo kiểu Mediterranean Gothic từ thế kỷ thứ 13.

Chiếc xe bus của công ty du lịch đưa chúng tôi đi qua vài thành phố cảng, sang trọng và sầm uất, nằm dọc theo bờ biển, để đến Alcudia, khu nghỉ mát nằm phía đông bắc Palma chừng ba giờ xe. Chúng tôi chọn nơi này, vì bờ biển đẹp, một cái vịnh nhỏ, nằm khuất sau dãy núi Victoria, nên không có sóng và khá an toàn cho trẻ em. Những em bé năm, sáu tuổi có thể lội ra cách bờ 50-60 mét.

Thực ra kỳ nghỉ hè này chỉ là món nợ mà vợ chồng tôi phải trả cho con bé cháu nội. Trước đây hai năm tôi hứa với cô bé là sẽ thưởng một kỳ nghỉ hè hai tuần lễ ở Mallorca nếu nó đọc và viết được tiếng Việt. Chúng tôi ở trong một khách sạn, đi bộ ra biển chừng vài phút. (Đa số khách sạn ở vùng này giống như những khu apartment, mỗi phòng trọ, ngoài các phòng ngủ, còn có phòng khách và bếp với đầy đủ dụng cụ nấu ăn). Ở Bắc Âu thời tiết lạnh đến bảy, tám tháng, không có nhiều dịp được ra biển tắm, nên con bé cháu nội rất mê biển. Sáng nào, mới vừa thức dậy, con bé cũng giục ông bà nội ra biển, mãi đến chiều, khi trời sắp tắt nắng mới chịu trở về. Đã vậy khi về đến khách sạn, cô bé còn xin được tiếp tục bơi lội trong hồ tắm của khách sạn đến tối mịt mới chịu vào phòng. Trong khi bà xã làm thức ăn, tôi có nhiệm vụ ngồi trên bờ hồ trông chừng con bé.

Ở đây, hầu hết khách du lịch đến từ Âu Châu, đa số là người Bắc Âu và Đức. Suốt tuần lễ đầu tiên, tôi không gặp người Á châu nào, ngoại trừ gia đình người Tàu làm chủ một nhà hàng buffet, sinh sống ở đây đã lâu năm. Một hôm, khi nằm trên chiếc ghế dựa bên hồ tắm nhìn trời, bất ngờ nghe cô bé cháu nội nói chuyện bằng tiếng Việt với một người nào đó. Nhìn xuống hồ tôi nhận ra một cô gái tóc đen đang tắm và đùa giỡn với con bé. Thấy tôi nhìn, cô gái lạ đưa tay vẫy, và nở một nụ cười chào tôi. Giữa một nơi xa lạ, người đồng hương dễ quen nhau.

Trưa hôm sau, trong lúc vợ chồng tôi nằm trốn nắng dưới cây dù lớn ngoài bãi tắm, con bé cháu nội dắt tay cô gái đến chào chúng tôi. Cô gái tự giới thiệu tên mình là Lam Khê, khoảng chừng 19, 20 tuổi, khuôn mặt khá xinh và đôi mắt thật to, tự nhiên dễ mến. Nhưng điều làm tôi chú ý chính là cái tên Lam Khê, trùng hợp với một địa danh vẫn còn đậm trong ký ức, cho dù cuộc đời thăng trầm đây đó của tôi còn có biết bao nhiêu cái tên để nhớ.

Buổi chiều, khi vợ chồng tôi và cô bé cháu nội đang ăn tối trong nhà hàng buffet của một người chủ gốc Tàu, thì bất ngờ thấy Lam Khê đi vào cùng với một người đàn bà Việt Nam và một người đàn ông ngoại quốc. Có lẽ Lam Khê đã kể về chúng tôi, nên cả hai người đến chào và bắt tay chúng tôi. Khi đứng lên bắt tay bà mẹ, tôi bất ngờ đến giật mình khi nhận ra người đàn bà này chính là người mà tôi vừa nghĩ tới sáng nay khi gặp Lam Khê. Trong khi tôi đang ngạc nhiên về những cuộc hạnh ngộ bất ngờ trong đời mình, thì bà nở nụ cười giới thiệu người đàn ông ngoại quốc đi bên cạnh:

-Đây là ông xã em. Anh người Đức. Chúng em sống ở thành phố Hamburg.

Tôi đưa tay bắt tay và gật đầu chào người đàn ông, nhưng lại hỏi bà:

-Xin lỗi, tên bà có phải là Hà Giang?

-Sao ông bà biết tên tôi? Người đàn bà trố mắt nhìn chúng tôi ngạc nhiên.

-Không ngờ tôi lại gặp bà ở đây - Tôi vừa nói vừa kéo ghế mời cả ba người- Hóa ra chúng ta đã từng gặp nhau. Chúng tôi xin được mời ông bà và cháu Lam Khê.

Bà ngồi xuống bên cạnh vợ tôi, nét ngạc nhiên vẫn còn nguyên trên mặt. Để đánh tan không khí căng thẳng, tôi giải thích:

- Tôi biết bà khi tôi đang ở tù ngoài miền Bắc. Sáng nay khi gặp và biết tên cháu Lam Khê, tôi đã nghĩ ngay đến bà. Bởi cái tên Lam Khê, tôi và đám bạn tù không thể nào quên. Không ngờ bây giờ lại gặp bà ở đây. Xin cám ơn tình cảm và lòng tốt của bà đã dành cho chúng tôi trong những ngày sa cơ khốn khó.

Bà nhìn tôi dò xét. Suốt bữa ăn, chúng tôi nhắc lại những ngày vui buồn ở vùng núi xa xăm ấy. Trong khung cảnh vui vẻ, nhưng nhìn khuôn mặt và nụ cười không trọn, tôi có cảm giác bà ta đang ưu tư một điều gì đó.

Lam Khê, cái tên khá đẹp đó lại là một khu núi rừng Thanh Hóa, tiêu điều hoang vắng, nằm sát biên giới Lào-Việt, mà bọn tù “cải tạo” chúng tôi bị đưa đến đây để phát rừng trồng cây, xây dựng một lâm trường, trong một mùa hè nắng và gió Lào muốn cháy cả thịt da.

Ngày đầu mới đến, giữa một khu núi rừng xa xôi hẻo lánh, chúng tôi chỉ thấy có hai căn nhà lá cọ vừa mới dựng lên, trong đó chỉ có vài người ở. Họ được giới thiệu là “những bảo vệ và cán bộ lâm trường”. Điều làm chúng tôi vừa ngạc nhiên vừa thích thú là sự có mặt của một cô con gái trẻ, trông dáng dấp e ấp thư sinh, mà lại là “thủ trưởng” toàn bộ lâm trường này. Tôi nhớ một câu ví von của người nào đó: “Hoa lạc giữa rừng gươm”!

Cả đội tù chúng tôi trên sáu mươi người được lệnh ngồi trên một bãi cỏ bên bìa rừng, để “nghe nữ đồng chí giám đốc lâm trường lên lớp”. Mặc một bộ đồ công nhân màu xanh, rộng thùng thình, khuôn mặt không một chút phấn son, nhưng trông khá xinh với đôi mắt thật to và buồn. Cô chào chúng tôi bằng một nụ cười, nói năng từ tốn, tự giới thiệu tên là Hà Giang, trước khi nói về địa thế, đặc tính khu rừng, cách thức phát hoang và phương pháp an toàn. Cô gọi chúng tôi là các chú và xưng mình là em. Sự kiện chưa từng thấy trong những năm tù. Cuối cùng cô nhờ anh đội trưởng cắt cử cho cô năm người để cô hướng dẫn việc đo đạc, cấm cọc, căng giây. Tôi được may mắn nằm trong năm thằng được chọn.

Dường như từ ngày có chúng tôi, đôi mắt của cô trông bớt buồn hơn. Nhiều lúc cô đùa giỡn rất thân tình. Mỗi ngày năm đứa chúng tôi theo cô vào rừng để đo đạc. Những lúc ấy cô thường ngồi tâm tình. Cô kể về đời mình và thường hỏi mỗi người chúng tôi về hoàn cảnh cha mẹ, vợ con ở quê nhà. Nghe chúng tôi kể sự gian truân của gia đình cùng nỗi nhớ thương vô vọng, nhiều lần cô đã lau nước mắt. Thấy một anh đeo trên cổ tấm ảnh của vợ lồng trong mảnh gỗ mun nhỏ, cô xin được xem rồi bảo nhỏ “các chú thật chung tình”.

Hà Giang là một sinh viên giỏi, được gửi sang Đông Đức học về Lâm Nghiệp. Sau khi tốt nghiệp trở về đúng vào lúc đảng Cộng Sản phát động phong trào “trí thức đi thực tế”, cô được đưa lên Lào Cai, hướng dẫn những người dân tộc trồng và bảo vệ rừng. Mới đến Lào Cai vài tháng, chưa quen với khí hậu khắc nghiệt và tập quán địa phương, thì giặc “bành trướng” Trung Quốc tràn qua biên giới. Rất may mắn, lúc ấy cô đang về học một lớp chính trị ở Hà Nội, nên thoát nạn và được Bộ điều vào Thanh Hóa để thành lập lâm trường mới. Đó chính là lâm trường mà chúng tôi đang có mặt. Thực ra đây chỉ là một vùng núi rừng hoang vắng, với ban điều hành gồm năm người, do cô làm giám đốc, cơ sở chỉ là hai căn nhà lá, công nhân là 60 thằng tù khổ sai bọn tôi, và dụng cụ chỉ có toàn dao phát rừng và vài cái cuốc chim!

Một hôm, thấy thấp thoáng một người đàn ông lạ, chúng tôi hỏi cô. Ngập ngừng một lúc thì cô mới buồn bã tâm sự. Người đàn ông ấy là một công nhân máy kéo tiên tiến, đang phục vụ ở một lâm trường khác, cách nơi này hơn hai mươi cây số, có nhiều tuổi đảng, được đảng bộ sắp xếp để lâp gia đình với cô, làm gương cho kế hoạch “trí thức cùng chung sống với công nhân” của đảng mới đề ra. Mục đích làm cho đám công nhân ít học, phấn khởi trước sự ưu ái của đảng, đem hết sức lực ra phục vụ và trung thành với đảng. Đây cũng là “phần thưởng” để cô được bổ nhậm về lâm trường mới này với chức danh giám đốc!

Chúng tôi ngạc nhiên, vì gã công nhân tiên tiến này trông lớn hơn cô nhiều tuổi, rổ mặt, đen đủi, cục mịch. Không có điều nào hợp với cô con gái có học và dễ thương này. Cô còn bảo là trong trái tim cô, không hề có một ngăn nhỏ nào dành cho anh ta, nhưng không dám làm trái ý đảng, sẽ bị kỷ luật nặng, vì vậy cô phải gật đầu, nhưng tìm cách trì hoãn đám cưới được ngày nào hay ngày ấy. Cô nói là cô đang trong thời kỳ “nín thở qua sông”!

Mặc dù có cảm tình và tội nghiệp cô, nhưng chúng tôi luôn “đề cao cảnh giác” không dám nói điều gì. Vì kinh nghiệm cho chúng tôi biết, Cộng Sản luôn gài nhiều cái bẫy chung quanh, và chuyện “mỹ nhân kế” không phải bây giờ mới có. Một hôm, trong lúc ngồi nghỉ trưa, cô lấy ra từ chiếc bao nhỏ, mời chúng tôi mỗi người một củ khoai lang luôc, rồi buột miệng hỏi:

-Nghe nói các anh ở trong trại bị bọn công an hành hạ dữ lắm phải không?

- Bọn tôi là những người thua trận, thì chuyện bị tù đày, hành hạ cũng là lẽ thường tình - Một anh bạn tù trong bọn tôi trả lời.

Cô trầm ngâm giây lác rồi lên tiếng:

- Theo em thì trong cuộc chiến ấy, tất cả chúng ta, miền Bắc và miền Nam, chẳng có ai chiến thắng. Chỉ có những kẻ ngu muội, luôn cúi đầu làm tay sai ngoại bang, mà cứ tưởng là mình đại thắng, để cầm tù và hành hạ lẫn nhau thôi. Chỉ trong các nước Cộng Sản mới có chuyện lạ đời: một lũ ngu dốt lại được giao trách nhiệm “giáo dục, cải tạo” những người trí thức, mà đòi hỏi người ta phải tiến bộ tốt! Khôi hài thật!

Bọn tôi chỉ im lặng. Những lần nói chuyện sau đó cô thường bảo là cô rất ghê tởm cái đảng Cộng sản, nhưng muốn chống lại hay thoát ra, phải trả bằng mạng sống, có khi làm khốn khổ cho cả gia đình. Điều làm chúng tôi vui là được lao động thoải mái, không cần phải đạt một chỉ tiêu nào, và thường được cô cho bồi dưỡng bằng khoai, có khi mì sợi. Anh em nào có áo quần dân sự hay khăn tắm mang theo, Cô nhận mang đi đổi lấy gạo, đường hay vài loại thực phẩm khác.

Lâm trường mới khởi công vừa được hơn ba tuần thì trại tù có lệnh biên chế. Tôi bị chuyển sang một trại mới, tiếc nuối những ngày lao động tương đối thoải mái, hiếm hoi trong gần bảy năm tù.



2-

Chiều hôm sau, khi dắt con bé cháu nội ra hồ tắm trong khách sạn, tôi bất ngờ gặp Hà Giang và cô con gái Lam Khê. Hai mẹ con đang nằm trên ghế đọc sách. Thấy tôi, Hà Giang ngồi dậy, mời tôi ngồi vào ghế bên cạnh và vui vẻ bảo Lam Khê xuống hồ bơi và chơi đùa với con bé cháu nội của tôi, dặn dò trông chừng con bé, và có nhã ý muốn đến phòng trọ thăm bà xã của tôi.

Chúng tôi mời cơm, nhưng bà từ chối, chỉ xin uống trà. Khi tách trà vừa cạn, bà đề nghị chúng tôi cứ gọi bà bằng cô và đột ngột hỏi tôi:

- Anh còn nhớ anh Đôn không ?

Thấy tôi chau mày, bà nói thêm như để xác định:

- Trần Chánh Đôn!

Tôi hỏi lại:

- Đôn pilot, cùng toán đo đạc với tôi lúc làm việc với cô ở lâm trường?

Hà Giang gật đầu, không nói. Một lúc, tôi thấy bà đưa khăn tay lau nước mắt. Và sau đó, vợ chồng tôi ngồi nghe tâm sự của bà:

- Anh Đôn đã chết rồi! Tất cả là do lỗi của em. Chính em đã cung cấp cho anh Đôn thực phẩm, thuốc men, tấm bản đồ và một chiếc la bàn, em lấy của lâm trường khi ấy, và chỉ vẽ cho anh cách thức trốn khỏi lâm trường cùng với ba người bạn tù khác. Với tấm bản đồ, cái la bàn và sự hướng dẫn tường tận của em, em tin chắc là các anh ấy đã dễ dàng trốn được qua khỏi biên giới. Không ngờ sau hơn ba tuần, khi em đang khấp khởi mừng thầm thì được tin tất cả đều bị bắt tại Lào. Em như muốn quỵ xuống, mất ăn mất ngủ, nhưng cũng cố giữ bình tĩnh tìm cách hỏi một số cán bộ công an trại giam. Họ cho biết là tất cả bốn anh đều bị công an bắn chết trên đường dẫn độ từ Lào về trại, bởi các anh đã chống cự để tìm cách thoát thân. Mặc dù tin tưởng vào thái độ kiên cường và tư cách của các anh, dù có tra tấn thế nào các anh cũng sẽ không khai ra sự tiếp tay trợ giúp của em, nhưng em vẫn lo sợ bị liên lụy, nếu họ phát hiện tấm bản đồ và cái la bàn của lâm trường thì hậu quả khôn lường, nên em đã khẩn trương chạy về Bộ, năn nỉ và hối lộ tất cả số tiền dành dụm để ông Thứ Trưởng cho em được trở lại Đông Đức hai tuần, đệ trình cho trường đại học cũ một số nghiên cứu mà em vừa viết xong, sau hơn một năm tốt nghiệp và ra thực tế ngoài lâm trường. May mắn em được ông ta gật đầu, và liên lạc can thiệp bên tòa đại sứ Đức cấp visa sớm. Chỉ hơn mười ngày là em rời khỏi nước. Tất nhiên đó chỉ là cái cớ. Sau khi sang Đức, em trốn lại ở nhà vợ chồng người bạn Đức mà em quen thân lúc còn học ở đây. Ông chồng em mà anh chị gặp tối hôm qua trong quán ăn, là anh ruột của cô bạn thân này. Anh ấy đã hết lòng lo lắng và chở che em.

Rời khỏi Việt Nam, ngoài quê hương và gia đình, em còn mang theo hình ảnh của anh Đôn. Xin anh chị đừng ngạc nhiên, em yêu anh ấy! Ngoài sự hiểu biết, đẹp trai với nụ cười độ lượng, em còn nhìn thấy bên trong của anh Đôn là sự thủy chung và lòng tự trong, có cả một chút nghệ sĩ lãng mạn nữa.Thời gian làm việc bên nhau, trong khu núi rừng Lam Khê ấy, em đã học được ở anh rất nhiều điều hay, nghe anh hát những bản tình ca, đọc những bài thơ lãng mạn, tuyệt vời. Trái tim em lần đầu tiên biết rung động. Tội nghiệp, em yêu anh Đôn trong một hoàn cảnh quá nghiệt ngã. Điều duy nhất mà em có thể làm được cho người yêu của mình là giúp anh trốn trại, vượt ra khỏi khung cảnh đày ải man rợ, để anh ấy luôn được xứng đáng với những điều anh đang có. Vì chính những điều ấy đã làm cho trái tim em rung động, để em biết thế nào là một tình yêu, mà nếu không gặp anh ấy, có lẽ suốt cả đời em không có được. Quan trọng hơn, đó lại là thứ vũ khí tốt nhất, hiệu quả nhất giúp em đủ can đảm và nghị lực để chống lại số phận, mà trước đó em nghĩ là sẽ tới một ngày em sẽ phải đầu hàng, buông xuôi, bất lực.

Hà Giang ngưng lại, lau tiếp những giọt nước mắt chảy dài trên gò má. Tôi rót thêm trà mời cô.

Bà xã tôi hỏi:

- Cô có giữ tấm ảnh nào của anh Đôn?

- Tiếc là khi ấy anh Đôn không có tấm ảnh nào hết. Anh có cho em địa chỉ của bố mẹ anh ở thành phố Nha Trang, nhưng em gởi mấy cái thư về địa chỉ ấy đều bị trả lại, với lý do: người nhận không còn ở tại địa chỉ này. Nghe nói bố mẹ anh đều là thầy giáo, không biết có bị đi vùng kinh tế mới hay không?

Tôi đưa tay ngăn lời cô:

- Cô còn nhớ địa chỉ ấy không? Chúng tôi cũng đều là người gốc Nha Trang. Tôi có thể hỏi thăm tin tức cho cô. Nhân tiện chúng tôi cũng muốn biếu cha mẹ anh ít tiền, vì Đôn cũng là bạn tù của tôi.

Hà Giang chau mày:

- Lâu quá, nên em quên, nhưng có thể em còn giữ ở nhà. Em xin địa chỉ e-mail để gởi đến anh chị, nếu em tìm lại được. Em thiết tha muốn gặp bố mẹ anh Đôn, nếu các người còn sống.

Thực ra chuyện Hà Giang yêu Đôn, cũng chẳng làm tôi ngạc nhiên nhiều lắm. Đúng như Hà Giang nói: Đôn là một phi công trẻ. Bao nhiêu năm trong cảnh khốn cùng, đã không làm mất đi nét đẹp trai, tính nghệ sĩ và tư cách của Đôn. Bạn tù ai cũng quí mến. Chuyện Đôn cùng ba người bạn tù khác trốn trại, khi tôi đã bị chuyển đi trại khác hơn tám tháng, sau này ra hải ngoại, tôi có nghe đám bạn bè kể lại, nhưng mỗi người mỗi cách.

Chỉ hơn một tuần về lại nhà, sau kỳ nghỉ hè khá thú vị, nhất là bất ngờ gặp lại Hà Giang, hồi tưởng lại một thời tù đày, tôi nhận được e-mail của Hà Giang gởi thăm, có ghi địa chỉ của ông bà Trần Chánh Nghị, cha mẹ Đôn, ở Nha Trang.

Tôi viết thư nhờ người bạn thân còn ở lại Nha Trang, tìm đến địa chỉ nhà Đôn mà Hà Giang vừa mới cho. Tôi cũng cho anh bạn biết là gia đình Đôn đã dọn đi nơi khác, nhưng từ đó hỏi thăm biết đâu có thể tìm ra manh mối.

Sau gần hai tháng, tôi nhận được thư hồi âm của người bạn cũ. Một đoạn trong thư làm tôi bất ngờ, nhưng sáng lên hy vọng:

“Đúng như mày viết, gia đình người này đã dọn đi khá lâu rồi. Nhưng có người láng giềng cho biết là ông bà chủ nhà đã qua đời hơn hai mươi năm nay. Ông bà chỉ có người con trai duy nhất bị tàn tật, hình như là đang đi tu ở một ngôi chùa nào đó. Tao dò tìm khắp nơi theo lời kể khá mơ hồ của những người hàng xóm, đến nay vẫn chưa gặp được...“

Tôi đọc đi đọc lại dòng chữ “Ông bà chỉ có người con trai duy nhất“, rồi chạy ra ngân hàng gởi một ít tiền cho người bạn, kèm theo lời nhắn: Mày cố gắng mọi cách tìm gặp người con trai này, và hỏi có phải tên là Trần Chánh Đôn. Có gì ra bưu điện gọi điện thoại cho tao biết.

Tôi nôn nao chờ đợi, bỗng một hôm, lúc nửa đêm, điện thoại reo. Bốc ống nghe lên, tôi vui mừng và hồi họp khi nghe tiếng của người bạn từ Việt Nam:

“Tao đã tìm được anh ta. Đúng là Trần Chánh Đôn. Bây giờ là đại đức Thích Thiện Hòa. Anh đang tu ở một ngôi chùa nhỏ, nằm dưới triền núi, phía trên đèo Ngoạn Mục, đèo Bellevue đó, thuộc quận Đơn Dương, cách Đà Lạt gần bốn mươi cây số. Chùa do người bác ruột xây dựng và làm trụ trì. Tội nghiệp, ông Thiện Hòa bị mù một con mắt và què cả hai chân, nhưng khuôn mặt trông đẹp và phúc hậu lắm. Tao nghĩ là ông không bao giờ rời khỏi chùa, vì từ dưới chân núi đi lên, tao đếm hơn năm mươi bậc tam cấp.“

Tôi viết e-mail cho Hà Giang, báo cho cô cái tin bất ngờ này. Đắn đo mãi, cuối cùng mới quyết định nói thật mọi điều. Nhớ lại nhiều lần cô lau nước mắt khi kể về Đôn với vợ chồng tôi ở Mallorca, tôi nghĩ là cô sẽ đau lòng lắm khi nhận được tin này.

Sáng hôm sau tôi nhận e-mail hồi âm của Hà Giang:

“Anh Chị ơi.

Em đã khóc hết nước mắt khi nhận được tin anh Đôn. Suốt cả đêm hôm qua em không thể nào chợp mắt. Em phải xin nghỉ làm hôm nay, và bây giờ lòng dạ cứ thẫn thờ. Không thể ngờ là anh Đôn vẫn còn sống. Em vừa mừng nhưng cũng vừa đau lòng lắm, khi biết anh đã bị mù một mắt và tàn phế cả đôi chân.

Suy nghĩ mãi, em mới dám nói ra điều này với anh chị, vì anh cũng là bạn của anh Đôn và với em như là một người anh, người chú.

- Cháu Lâm Khê, đứa con gái mà anh chị đã gặp ở Mallorca, chính là giọt máu của anh Đôn. Trước ngày chia tay, để anh ra đi, chúng em có đôi ngày hạnh phúc ngắn ngủi trong rừng, em tự nguyện dâng hiến cho anh, thay cho lời hẹn ước, là dù góc biển chân trời nào, dù có phải trải qua bao nhiêu giông bão, chúng em cũng sẽ tìm gặp để đoàn viên. Nhưng rồi ông trời đã hại em, vì em cứ đinh ninh là anh ấy đã chết. Để tang cho anh đến sáu năm, em mới lấy ông chồng này, đền đáp lòng yêu thương và cưu mang đùm bọc của ông khi em thân cô trôi dạt xứ người. Bây giờ biết được anh Đôn còn sống, nhưng đã trở thành một vị đại đức, em vừa hối hận vừa băn khoăn, không biết phải làm sao. Em tha thiết xin anh chị cho em một lời khuyên, để em biết mình sẽ phải làm gì. Bây giờ chắc anh ấy chẳng cần một sự giúp đỡ vật chất nào, nhưng còn Lam Khê, dù sao nó cũng l giọt máu của anh. Làm thế nào để cha con nhận ra nhau? Lam Khê cũng nghĩ là ba nó đã chết. Thỉnh thoảng cháu hỏi em về ba nó. Cháu thương và hãnh diện về ba cháu lắm.“



3-

Cuối cùng, vợ chồng tôi bàn tính mãi nhưng cũng không tìm ra một lời khuyên nào để giúp Hà Giang, ngoài việc hỏi cô nếu muốn gặp Đôn, vợ tôi có thể giúp cô, cùng về Việt Nam, vì vợ tôi sống ở Nha Trang khá lâu, lại có thằng bạn thân ở đó, biết rõ đường đi đến vùng núi Đơn Dương, Đà Lạt, nơi có ngôi chùa.

Không ngờ Hà Giang mừng rỡ đón nhận đề nghị này, và xin vợ tôi về Việt Nam ngay trong tuần để đón giùm mẹ con cô tại phi trường Tân Sơn Nhất. Đây là lần đầu tiên cô bước chân đến miền Nam Việt Nam. Số chuyến bay và giờ đến phi trường, cô sẽ cho biết sớm.

Và dưới đây là lời kể của vợ tôi, về cuộc trùng phùng:

...Họ gặp nhau và nhận ra nhau. Mới đầu, Hà Giang ôm chầm lấy Đôn mà khóc nức nở. Cô quên mất anh đang là một vị thầy tu. Xúc động nhất là khi Hà Giang cho anh biết Lam Khê chính là con của anh. Hai cha con họ ôm lấy nhau thật lâu và cả hai đầm đìa nước mắt. Thầy đem cả triết lý đời và đạo để an ủi, khuyến khích và hướng dẫn Lam Khê bước đi trong cuộc sống có quá nhiều muộn phiền và bất trắc. Thầy nói thật hay và cảm động.

Thầy kể lại chuyện trốn tù, lý do vì sao bị bắt, chuyện thầy bị đánh vỡ một con mắt và bị bắn nát hai bàn chân chỉ vì thầy nhất định không khai người nào đã giúp thầy cùng ba người bạn tù trốn trại một cách tài tình mà chúng nghi ngờ, mặc dù thầy đã kịp giấu tấm bản đồ và cái la bàn dưới một tảng đá trước khi bị bắt. Họ không đưa về trại cũ mà giao cho một trại tù khác. Bị biệt giam ở đây đến mấy năm mà thầy chẳng biết vì sao không chết. Hà Giang ngồi khóc nức nở.

Sau khi mọi người tìm lại được sự bình tĩnh, Hà Giang xin cúng dường cho chùa một số hiện kim, nhưng thầy Thiện Hòa từ chối, bảo là nhà chùa không cần một số tiền lớn như vậy. Hà Giang tha thiết xin được đưa thầy đi sang Đức làm đôi chân giả và thay con mắt mù lòa, thầy cũng chối từ, bảo thầy đã quen rồi với những mất mát ấy, hơn nữa bây giờ thầy đã tu hành, năm tháng chỉ quanh quẩn trong chùa, không cần thiết phải đi đó đi đây. Thầy có mở một lớp học dạy các em học sinh nghèo hiếu học trong vùng, nhưng phòng học là gian nhà trống vách ngay phía sau chùa.

Đêm cuối cùng ở Nha Trang, Hà Giang quyết định đổi vé máy bay, ở lại một thời gian nữa. Cô cho biết là mẹ con cô sẽ cố gắng thuyết phục Đôn, để mua cho anh cái xe lăn, xin được xây lại ngôi chùa mới, thay những bậc tam cấp bằng con đường lát đá, đặc biệt phía sau chùa, từ gian phòng Thầy dạy học nhìn ra, đã có sẵn khu rừng với ít hoa dã quỳ, cô sẽ cho sửa sang lại thành một khu vườn đẹp đẽ, trồng thêm hoa, làm suối nước, và xin đặt tên là Lam Khê Viên, vì chữ Lam nghe cũng hợp với khung cảnh chùa chiền...

Khi ngồi viết những dòng này, tôi không biết là những điều mong ước của Hà Giang có được thầy Thích Thiện Hòa chấp nhận hay không, và cuộc tình đẹp và bi tráng này có còn sống mãi trong lòng mỗi người cho đến thiên thu.

Phạm Tín An Ninh

Tiếc Thương - Như Quỳnh, Lâm Nhật Tiến

Click Vào Đây - Nhạc phẩm Tiếc Thương/Ca sĩ Như Quỳnh, Lâm Nhật Tiến

Hận Tình Trong Mưa - Quang Dũng

Click Vào Đây - Nhạc phẩm Hận Tình Trong Mưa/Ca sĩ Quang Dũng

Tuesday, March 29, 2011

Hội Quan Âm Năm 2011 tại chùa ViệtNam Houston

Lễ đài Hội Quan Âm trước khi lễ bắt đầu.

 
Chổ rải tro cốt bà xả tôi và sau lưng lễ đài, bong bóng được cất ở đây chuẩn bị cho lễ.


Vì Mùa Xuân nên chổ rải tro cốt bà xả xanh tươi.

Lễ Hội Quan Âm được bắt đầu

Sáng ngày Thứ Bảy 26 tháng 3, 2011 tôi về chùa ViệtNam Houston để dự lễ Hội Quan Âm và thăm tro cốt bà xả tôi.


Hằng năm cứ vào cuối tháng 3 dương lịch, chùa ViệtNam Houston tổ chức lễ Hội Quan Âm có hằng chục ngàn phật tử tham dự. Năm nay cũng như mọi năm, số người tham dự cũng cả chục ngàn. Riêng năm nay tôi đi dự lễ Hội Quan Âm sáng đi chiều về, chứ không ỡ lại Houston như mọi năm.


Sáng Thứ Bảy tôi rời San Antonio và trực chỉ nhà anh chị BS Thanh. Đến nhà anh chị Thanh đúng trưa, tôi định rủ anh chị Thanh ra nhà hàng ăn trưa, nhưng anh chị kẹt khách và anh chị mời tôi ở lại ăn xôi lạp xưởng. Ăn xôi xong, tôi và anh Thanh ra phố uống cà phê, và sau đó tôi đưa anh Thanh về nhà, tôi lên thẳng chùa ViệtNam.


Tôi đến chùa ViệtNam hơi sớm, và tôi đến thăm tro cốt bà xả. Vì bàn thờ Mẹ Hiền Quan Thế Âm Bồ Tát bị che lấp bởi lễ đài nên tôi không thắp nhang cúng Phật Bà và bà xả được, tôi vào trong văn phòng thư ký để cúng dường và lập sớ cầu siêu cho bà xả. Sau đó tôi ra dự lễ Hội Quan Âm, nhưng tôi không ở lâu, tôi trỡ về San Antonio ngay sau đó. Lái xe trỡ lại San Antonio trong ngày, tôi phải uống cả lít cà phê để khỏi ngũ gục!tth

Bèo Dạt Mây Trôi - Quang Dũng

Click Vào Đây - Nhạc phẩm Bèo Dạt Mây Trôi/Ca sĩ Quang Dũng

Sunday, March 27, 2011

Tình Khúc Buồn - Thu Trang

Click Vào Đây - Nhạc phẩm Tình Khúc Buồn/Ca sĩ Thu Trang

Mai Tôi Đi - Nguyễn Hồng Nhung

Click Vào Đây - Nhạc phẩm Mai Tôi Đi/Ca sĩ Nguyễn Hồng Nhung

Thursday, March 24, 2011

Rồi Mai Tôi Đưa Em Đi - Vũ Khanh

Click Vào Đây - Nhạc phẩm Rồi Mai Tôi Đưa Em Đi/Ca sĩ Vũ Khanh

Sunday, March 20, 2011

Sau ba tháng lang bạt giang hồ - Chị Bảy

Tháng 11, 2010 tôi cúng giáp năm cho bà xả và xả tang tại Chùa Việtnam Houston. Sau đó tôi qua San Diego để vui chơi với hai cháu ngoại. Tôi đang ở San Diego thì chú Mỹ em ruột tôi ở Germany gọi tôi,và Mỹ rủ tôi về Bình Dương ViệtNam dự đám cưới cháu Hương Trà.

Cách đây khá lâu, mẹ cháu Hương Trà là bác sĩ Huỳnh Thị Kim Chi chủ bệnh viện sản khoa ở Bình Dương có dẫn cháu Hương Trà đến San Antonio thăm vợ chồng tôi. Rồi năm 2007 vợ chồng tôi có về Bình Dương thăm BS Chi và chồng là BS Khôi. BS Chi là em chú bác ruột với tôi. Sau hai lần gặp lại đó, tình ruột thịt của anh em chúng tôi được hâm nóng trỡ lại sau mấy chục năm xa cách nguội lạnh. Chính nhờ sự hâm nóng nầy, khi Mỹ rủ tôi đi đám cưới cháu gái Hương Trà là người con cưng duy nhất của Chi, tôi nhận lời ngay, mặc dù Chi ngại xa xôi chưa mời tôi đám cưới.

Ngày đám cưới gần kề nên tôi vội vã mua vé máy về ViệtNam trong hai tuần. Khi tôi về tới ViệtNam chú Mỹ đón tôi ở phi trường và đưa tôi về hotel La Lan 1 đường Thủ Khoa Huân góc Nguyễn Du gần chợ Saigon, hotel nầy tôi đã đặt sẵn qua internet. Tôi gọi Chi báo tôi sẽ đi ăn đám cưới lậu, vì gia chủ không mời mà tôi cứ đi, Chi rất cãm động và lật đật mang thiệp đến hotel mời tôi. Gặp tôi Chi hỏi:

- Anh 10 về ViệtNam chuyến nầy dự định ở chơi bao lâu?
- Anh sẽ thả nỗi như lục bình trôi sông, lềnh bềnh theo dòng nước chưa biết ngày về.

Chi biết tôi mới mất bà xả và tôi đang buồn, nên Chi không nói tiếp và nhìn tôi với cặp mắt thương hại.

Về tới ViệtNam chuyến đi đầu tiên của tôi là bao xe lên chùa cô nhi viện ở Long Thành. Tôi biết cô nhi viện nầy là do em Minh Hạnh ở Mỹ giới thiệu cho tôi. Tôi mang mấy bịt kẹo to lớn từ Mỹ về, vậy mà không thấm vào đâu, các em mỗi đứa chỉ được vài cục, vì các em đông quá, trên 100 đứa. Tôi mua 3 bao gạo đem lên chùa và tôi cúng tiền mặt. Chùa hết sức sạch sẽ khang trang. Tôi thấy các em mồ côi ăn mặc đồng phục, cắp sách đi học về, tôi thấy vui vui và thán phục sư cô trù trì. Các em mồ côi có đứa ra đại học, đi làm ra tiền, chúng nó đóng góp xây nhà vãng lai có máy lạnh trong khuông viên chùa cho khách Việt Kiều ở để thâu tiền cho chùa.
Tôi ngồi với các em mồ côi. Các em ngồi trật tự chờ được phát kẹo tôi mang về từ Mỹ. 

Một cháu gái về từ Bĩ đang phát kẹo giùm tôi.

Tôi đứng với Sư Cô Trù Trì


Tôi ở Lan Lan 1 được một tuần. Mấy ngày đầu tôi buồn rã rời, rồi có một đêm tôi đọc emails qua Iphone, tình cơ tôi đọc một câu chuyện buồn ’’Người Lính Ấy Của Tôi’’ kèm theo trong email của Thầy D Trần ngọc Thạnh. Câu chuyện một cô gái son trẻ Đà Lạt yêu một anh chàng sinh viên sĩ quan năm thứ ba trường Võ Bị Đà Lạt. Khi ra trường chàng đi Sĩ Quan Nhãy Dù, mặc cho sự lo sợ cản ngăn của cha mẹ nàng. Trời! Câu chuyện sao mà dễ thương, tình tiết giống tôi ngày xưa! Click Vào Đây để đọc câu chuyện ’’Người Lính Ấy Của Tôi’’. Đọc câu chuyện nầy tôi khóc tức tuởi một mình trong hotel giữa đêm khuya. Tôi về đây với mục đích lang bạt giang hồ để tìm nguôi nguây cho tâm hồn, vậy mà tôi về mới có mấy ngày thì khóc tức tưởi như thế nầy. Trời! Tìm nguôi nguây kiểu gì vậy? Thế là tôi thay đổi hotel, với hy vọng thay đổi không khí. Tôi đổi sang hotel Thành Long Tân đường Trương Định góc Nguyển An Ninh cạnh cửa Đông chợ Saigon, ở đây vui hơn vì tối tối tôi bước ra chợ Saigon ăn hột vịt lộn, ăn cháo...

’’Đang buồn ngũ gặp chiếu manh“, anh chị KQ63A Lê tấn Phát bồ tèo của tôi về từ Mỹ, anh chị rủ tôi đi Hàn Quốc. Đang buồn được rủ đi chơi tôi mừng quá, thế là chiều hôm ấy tôi ra ViệtTravel để mua tour đi Hàn Quốc. Tôi là người sau cùng mua tour nầy, vì chiều hôm ấy họ khoá sổ. Mua tour đi Hàn Quốc mà tôi quên rằng thời tiết đang Mùa Đông bên đó. Đến ngày trước khi đi, tour guide dặn dò đem đồ lạnh, lúc ấy tôi mới giật mình. Đi Hàn Quốc rất vui nhưng lạnh thấu trời, âm 17C, nước đá đầy trên biển. May mà tôi và anh chị Phát có mang đủ đồ ấm, vậy mà có lần tụi tôi tưởng bõ mạng trên một đảo vì gió và lạnh kinh hồn, chân cẳng cứng ngắt đi đứng khó khăn! Nhờ có những lò lữa dọc đường đi, nên thỉnh thoảng chúng tôi dừng lại để hơ lửa và thoát nạn.
Thái và anh chị Phát ở Hàn Quốc

Tôi đến một chùa Hàn Quốc đóng $50 dollars để lập sớ cầu siêu cho bà xả trong một năm. Hình trên tôi cầm sớ, sớ với tên Huỳnh thị Yến sẽ được treo như hình dưới trong một năm. Tôi thấy có tên ViệtNam chổ treo sớ nầy.

Tôi đi Hàn Quốc về được mấy ngày, đến ngày giổ ông cố nội tôi ở Thủ Thừa Long An, tôi bao xe 15 chổ để chở các em bà con ở Saigon, Long An về quê ăn giổ. Gặp lại các em bà con tôi vui lắm. Con heo Mọi 40 ký tôi đặt quay cho đám giổ ngon thấu trời. Da heo dòn, thịt không mỡ, nước ướp thịt ngon tuyệt vời.
Hình chụp taị nhà của ông cố nội tôi. Ba tôi là trưởng nam, nên ông nội giao ba tôi giữ nhà nầy. Rồi ông nội tôi mất, ba tôi lại phải giữ nhà ông nội tôi cách nhà ông cố vài trăm thước trong chung một khu vườn 6 mẩu. Anh em tôi lớn lên trong hai cái nhà nầy. Năm 1975 hai nhà nầy bị tịch thu. Nhà ông nội tôi bị đập phá không còn một viên gạch. Nhà ông cố thì họ đem 200 thương phế binh nuôi trong nầy, và nhà bị đập phá 80%. Anh 7 của tôi là trưởng nam, anh kiện thưa đòi nhà và bị tù 3 lần, mỗi lần vài năm. Sau cùng họ trả nhà trong cảnh tan nát 80%, nhưng những thương phế binh cất nhà riêng trong khuông vườn chưa chịu đi, con đang tranh tụng với anh 7. Hình từ trái qua: Viễn em cô cậu, Loan em cô cậu, chị 7, anh 7, Thái, Sương em cô cậu, Mỹ em ruột. Người đứng giửa thọt tay túi quần là 5 Chiếu em cô cậu vợ Đaị Tá KQ Tuấn Sư Đoàn 5 KQ, bên trái 5 Chiếu là 6 Ngôn em cô cậu, cô mặc áo tràng màu đà bịt tóc là Diệu em chú bác và cũng là em thứ 19 của Đại Tá KQ Lê ngọc Duệ ở Chợ Gạo Mỹ Tho.
Phần còn lại của nhà ông cố sau khi bị đập phá.

Mộ ông bà cố tôi.

Sau đám giổ, tôi bao xe chở Mỹ và các em bà con đi Chợ Gạo Mỹ Tho thăm gia đình anh cố Đại Tá KQ Lê ngọc Duệ. Về Chợ Gạo, chị em anh Duệ bắt cá Tai Tượng chiên xù đải chúng tôi. Chị 12 em anh Duệ làm kẹo chuối ngon thấu trời, ngon bức kẹo chuối bán trong tiệm. Lần nào tôi về Chợ Gạo chị em anh Duệ cũng tiếp đải tôi như bát nước đầy. Nào dừa tươi, mức chùm ruột, bánh tét, kẹo chuối, mang về. Cơm nước thì thức ăn ê hề. Lần nầy về Chợ Gạo, cậu 18 em trai anh Duệ đưa tôi sang tham quan cái nhà thờ to lớn như lâu đài bên Anh Quốc, nhà thờ lớn nầy bên cạnh nhà thờ khá lớn mà chị em anh Duệ đang ở. Nhà thờ lớn nầy hiện công an đang chiếm và nuôi bò trong nhà. Đứng bên trong cái nhà đồ xộ tuyệt đẹp, nhìn những đống cứt bò cao ngút và nặc mùi hôi thúi, lòng tôi se thắt. Trời đất ơi! Thời đại cực kỳ văn minh nầy, sao lại có những bộ óc con người có thể làm được những việc đầy lạc hậu như vậy?
5 Chiếu vợ Đ/tá KQ Tuấn TMPHQ Sư Đoàn 5 KQ đang chiên xù cá Tai Tượng tại nhà của gia đình anh KQ Duệ
Ngôi nhà thờ của gia đình anh KQ Duệ đẹp thấu trời, phía sau có hai nhà khách với nhiều phòng ngũ cho nam nữ riêng biệt, giửa hai nhà khách là hồ nước to lớn bằng bê tông. Vậy mà công an chiếm đoạt ngôi nhà nầy để nuôi bò bên trong nhà!!
Từ trái qua: Hiếu, 6 Sương, 5 Chiếu, Mỹ, Thái, 17 Liên và 18 Phụng em anh Duệ. Anh Duệ thứ 11.

Gần Tết, BS Chi mời tôi và chú Mỹ dự tiệc tất niên của bệnh viện ở Bình Dương. Bệnh viện có trên dưới 30 bác sĩ và nhân viên đông lắm. Trong tiệc tất niên, BS Chi làm mai cho tôi bốn cô chưa hề lập gia đình, một cô Bác Sĩ mỗ sản khoa của bệnh viện, một cô Dược Sĩ, hai cô Kế Toán. BS Chi dặn dò tôi chọn một trong bốn cô nếu tôi thích. Tội nghiệp! BS Chi hết sức quan tâm lo cho sự đơn chiếc của tôi. Tôi sẽ nói về việc làm mai nầy trong bài viết kế tiếp.

Sau tiệc tất niên của bệnh viện, tôi và chú Mỹ dự tiệc cưới cháu Hương Trà ở Hotel New World Saigon, rồi sáng hôm sau tôi và Mỹ dự lễ đưa dâu ở Bình Dương. Cháu Hương Trà là con cưng duy nhất của BS Chi, cháu đang học y khoa bên Canada. Sau đám cưới một ngày, cháu Trà phải đi Canada ngay để học. Chú rể người Bình Dương, đang chuẩn bị sang Canada để đoàn tụ với vợ. Về ViệtNam chuyến nầy, may mà có Chi nên mấy ngày tết tôi đỡ buồn. Chi và Khôi đưa tôi và Mỹ về Thủ Thừa Long An để cúng ông bà tổ tiên của chúng tôi ngày mồng một Tết. Sáng mồng hai Tết, Chi và Khôi đưa tôi và Mỹ ra resort ở Phan Rang, Phan Thiết ăn Tết cho tới mồng bốn chúng tôi về lại Bình Dương.
Từ trái qua: Thái, Khôi, Chi, Mỹ trên bải biển Ninh Chử Phan Rang

Gần Tết KQ Lê Phước Khương mời tôi đến nhà ăn tất niên. Tôi và Khương đã từng ’’vào sanh ra tử’’ bay hành quân trên vùng trời Quân Đoàn 2 vào năm 1964, 1965. Năm 1975 Khương kẹt lại và ỡ tù. Ra tù nhờ có quới nhơn phù hộ, Khương làm ăn khá nên Khương không đi qua Mỹ diện H.O. Ăn cơm tất niên ở nhà Khương tôi may mắn gặp lại vài bạn KQ ngày xưa như KQ Bùi Kim Điền. Điền cũng đã từng bay hành quân với tôi ờ Quân Đoàn 2. Điền không thay đỗi nhiều, vẫn phong độ như ngày xưa.
Tiệc tất niên tại nhà Khương. Từ trái qua: Thái, Điền và vợ chồng Khương đứng.

Thầy D Vương văn Ngọ năm 1975 cũng kẹt lại và đi tù. Ngọ không qua Mỹ. Ngọ mời tôi tới nhà ăn cơm với tình bạn Thầy D. Nhà Ngọ khang trang dễ thương.
Cơm tại nhà Thầy D Ngọ. Thái chụp hình với vợ chồng Ngọ

Chị Bảy gặp nạn! Hôm ấy còn mấy ngày nữa Tết, tôi thay áo quần diện chuẩn bị đi chợ hoa ỏ đường Nguyễn Huệ. Tôi mặc quần kaki sáu túi mà con trai Thông mua cho tôi. Tôi về Saigon được mấy tuần rồi, lần nào đi chơi, tôi không bỏ bóp ở túi sau của quần, mà tôi cất bóp ở túi quần bên hông, và tôi cẩn thận cài kim tây phía ngoài! Nhưng lần nầy tôi mặc quần sáu túi, tôi cảm thấy rất an toàn, vì quần nhiều túi làm sao nó biết tôi cất bóp trong túi nào. Người Saigon dặn dò tôi:

- Cái gì sau lưng anh không phải của anh.

Kỳ nầy tôi mặc quần sáu túi, tôi cất bóp trong cái túi ở đầu gối bên phải, vậy là cái bóp không nằm sau lưng tôi, mà nằm trước mặt tôi, thế là chắc ăn rồi! Tôi hí hửng kêu taxi đi từ hotel ra đường Hàm Nghi. Tôi đi taxi ra tiệm massage ở đường Hàm Nghi, vì có lần một cô đang massage cho tôi ở đây than khóc, cô cho biết tay cô đau nhức không chịu được, nhưng vì chén cơm nên cô phải tiếp tục làm. Tôi nhớ tới toa thuốc đau khớp xương tay của bà xả Thầy D Triết, nên tôi in toa thuốc nầy trong website và mang ra cho cô. Trao toa thuốc cho cô, tôi thả bộ từ Hàm Nghi dọc theo lề đường Lê Lợi lên Nguyễn Huệ để xem chợ hoa. Nhưng chợ hoa ngày mai mới khai trương, tôi lại thả bộ trên lề đường Lê Lợi trỡ lại chợ Saigon để ăn hột vịt lộn. Trên lề đường Lê Lợi, khúc nầy không đèn tối âm u, tôi thấy một bà hành khất thật già để ngửa cái nón lá và bà ngồi yên không có một lời xin xỏ. Tôi dừng lại móc bóp lấy tiền bỏ vô nón lá, rồi tôi tiếp tục đi về chợ Saigon. Người Saigon cho tôi biết lúc tôi móc bóp là lúc kẻ gian bắt đầu theo tôi, vì nó đã biết tôi cất cái bóp ở túi nào trong quần. Tôi đi bộ dọc theo cửa Đông chợ Saigon, và tôi đi băng qua đường Nguyễn An Ninh ngay cửa Đông. Một chiếc xe gắn máy chạy trên đường Nguyễn An Ninh cứ ủi ủi vô chân bên trái của tôi, tôi lấy hai tay đẩy chiếc xe gắn máy ra và kêu lên vừa đủ nghe: ’’ Đi gì kỳ vậy...đi gì kỳ vậy...đi gì kỳ vậy?’’. Tôi thắc mắc tại sao anh lái xe gắn máy không dám nhìn tôi, có lẽ anh sợ tôi nhìn mặt, tôi bắt đầu nghi ngờ nên khi anh vừa chạy xe qua tôi, tôi rờ cái bóp thì cái bóp đâu mất rồi. Tụi nó cả bọn, đứa tấn công bên trái rồi đứa khác lấy bóp bên phải! Như người mất hồn, tôi đứng giữa đường rờ hoài khắp người, nhưng tôi chẳng thấy cái bóp đâu!!

Trong bóp có một ngàn dollars và sáu triệu VN. Số tiền nầy không làm tôi bận tâm, vì tôi còn nhiều tiền tôi gởi rải rác cho anh em tôi cất, tôi lo sợ nhất là các Credit Cards và ATM Cards. Tôi gọi anh KQ63A Lê Tấn Phát đang ở nhà người chị ở Thủ Đức. Mới đầu anh Phát tưởng tôi giởn, nhưng sau đó anh lật đật lấy xe gắn máy về Sagion với tôi ngay. Anh Phát đưa tôi đến đồn công an để khai báo. Rồi hai đứa tôi vô tiệm cà phê nữa đêm, vì tiệm cà phê có WI-FI. Tôi cần WI-FI cho Iphone của tôi, để tôi dùng Iphone vô internet cancel Credit Cards và ATM Cards. May mắn cho tôi, tôi cancel các cards kịp thời. Anh Phát cho tôi muợn một triệu VN để tôi đi taxi về hotel. Trên taxi anh tài xế nghe tôi mất bóp, anh an ủi tôi:

- Ông đừng buồn! Tôi là dân địa phương thổ địa ở đây, vậy mà có lần tôi mệt quá dừng xe lại ngủ chốc lát lấy sức. Tôi quay kiếng xe xuống tí tí để thở, vậy mà nó thò tay vô rọc túi lấy mất cái bóp của tôi!

Nghe anh tài xế taxi nói, tôi lắc đầu chịu thua.

******
Qua Tết tôi lên Đà Lạt thăm gia đình bà xả. Đây là lần đầu tiên tôi về Đà Lạt thiếu vắng bà xả. Tôi không muốn về Đà Lạt trước Tết, vì tôi tin chắc tôi sẽ không đem niềm vui cho bất cứ gia đình nào trong mấy ngày Tết. Tôi đi xe đò lên Đà Lạt với anh chị KQ63A Lê tấn Phát. Chúng tôi ngắm cảnh hai bên đường để so sánh cảnh ngày xưa, tôi và anh Phát bàn tán vui lắm. Vì tôi mất hết số điện thoại của gia đình bà xả để trong bóp, nên tôi lên Đà Lạt không báo trước. Tôi bước vô nhà người anh của bà xả, cã nhà ngạc nhiên xững sờ, nhưng nhờ có anh chị Phát nên ai cũng cố cầm được nước mắt. Khi anh chị Phát về hotel cạnh đó, anh chị em bà xả quay quần bên tôi nhắc chuyện bà xả, người nào cũng nước mắt lưng tròng. Lần nào cũng vậy, mỗi lần tôi về Đà Lạt anh chi em và cháu bà xả quấn quít thương yêu. Tôi mời gia đình ra tiệm ăn, rồi mỗi gia đình thay phiên nhau đải cơm ỡ nhà, lần nào cũng có anh chị Phát tham dự nên tôi đở nhớ bà xả. Chiều Thứ Bảy tôi mời hết gia đình cùng anh chị Phát ra XQ ăn thức ăn Huế và nghe nhạc. Khung cảnh XQ lúc nào cũng làm tâm hồn tôi thư giản, nhất là lúc tiếng đàn tỳ bà lẫn với giọng ngâm thơ của các cô gái Huế trong bộ khăn đống áo dài thướt tha dễ thương.

Lên Đà Lạt được một tuần, tôi và anh chị Phát đi xe đò trỡ về Saigon. Lần nầy tôi không về Saigon ở hotel mà tôi lên thẳng Bình Dương ở hotel. Tôi ở Bình Dương vì Chú Mỹ em ruột tôi ở Germany về ở Bình Dương để tránh né Mùa Đông bên Germany, chú có mua nhà ở Bình Dương. Ngoài ra tôi có BS Chi, Bs Khôi em chú bác với tôi ở Bình Dương.

Chị Bảy gặp nạn lần thứ 2. Sau khi tôi dự đám cưới cháu Hương Trà, tôi đinh ninh tôi sẽ không bao giờ dùng bộ đồ vest nữa, nên tôi cuốn bộ đồ vest nhét vô vali để về Mỹ bỏ giặt. Lên Đà Lạt tôi được biết ngày 12 tháng 3, 2011, em gái kế bà xả cưới vợ cho Tin người con trai thứ hai. Tôi hên quá sức vì tôi mới đổi vé máy bay về Mỹ sớm hơn hai tuần, vào ngày 14 tháng 3, 2011. Vậy là tôi có duyên dự đám cưới cháu Tin, tôi lấy bộ đồ vest giao cho hotel bỏ giặt. Cô giặt đồ cho hotel thật là nhà quê, thay vì bỏ tiêm giặt cô tự giặt bộ đồ vest để lấy tiền. Bộ đồ vest phải giặt khô, nhưng cô giặt bằng nước nên nó nhăn như bánh phồng nướng, vô phương cứu chửa. Cô khóc khi giao tôi bộ đồ vest và xin đền. Tôi nói: ‘’Cô nghèo làm sao cô đền nỗi bộ đồ vest nầy!". Tôi bào cô đem bộ độ vest vứt đi, và đừng lo nghĩ gì nữa. Thế là chuyến về ViệtNam nầy tôi bị mất bóp, mất bộ đồ vest! Tôi tự an ủi “của thay người” nên tôi không hề buồn.

******
Ngày 9 tháng 3, 2011 tôi đi Phú Quốc bằng máy bay đến ngày 11 tháng 3, 2011 tôi về lại Bình Dương. Tôi ở Sàigon Phú Quốc resort hết sức khang trang. Nước biển trong xanh tắm quá đả, thức ăn hải sản bán đầy đường trong phố đêm, tươi ngon và rẽ. Có tàu chở tôi đi tham quan các đảo nhỏ quanh đảo Phú Quốc. Nói là đảo nhỏ thật ra các đảo nầy khá lớn, tàu chạy khá lâu mới hết chiều dài một đảo nhỏ. Vài đảo nhỏ có cả làng người đánh cả sinh sống trên đó. Tôi ngạc nhiên vì có quá nhiều đảo nhỏ quanh đảo Phú Quốc.

Vé máy bay của tôi về lại Mỹ ngày 30 tháng 3, 2011, nhưng vì tôi bị mất bóp tôi nên mất hết hứng thú ở ViệtNam, tôi đổi vé về ngày 14 tháng 3, 2011 và tôi bị American Airline phạt $250 US Dollars. Ngày 14 tháng 3, 2011 tôi về Mỹ. tth


Ngày chót ở Bình Dương trước khi về Mỹ, tôi đải cơm trên tàu Dìn Ký trên sông Bình Dương để cám ơn vợ chồng Chi lo cho tôi những ngày tôi ở Bình Dương như bát nước đầy. Từ trái vô: Thái, Mỹ, Chi, Khôi.

Chờ Anh Bên Đồi - Như Quỳnh

Click Vào Đây - Nhạc phẩm Chờ Anh Bên Đồi/ Ca sĩ Như Quỳnh

Dạ Tâm Khúc - Vũ Khanh

Click Vào Đây - Nhạc phẩm Dạ Tâm Khúc/Ca sĩ Vũ Khanh

Thursday, March 17, 2011

Chị Bảy đã về nhà sau 3 tháng lang bạt giang hồ

Tôi về đến nhà chiều 3/15/2011. Sau ba tháng lang bạt giang hồ, tôi về nhà một đống mails ngập tới lỗ mũi đang chờ tôi đọc. Tôi phải đọc đống mails nầy hai buổi sáng mới hết.

Tôi bị móc bóp ở chợ Saigòn trước Tết nên tôi phải xin lại bằng lái xe, Credit Cards, ATM Cards, thẻ khám bịnh Medicare, Humana... Tôi trả bills điện thoại, TV, internet, insurance... bằng credit card tự động, nhưng khi mất bóp tôi gọi từ VN để cancel Credit Cards, ATM Cards nên các bills của tôi bị dội ứ đọng, cả ngày hôm nay tôi phải thanh toán các bills, mệt khờ luôn.

Tôi còn phải quét bụi bàn ghế, lau sàn gỗ...trăm thứ đang chờ tôi. Cảnh goá vợ khổ trăm chiều anh em ơi! Thầy D nào còn vợ ráng mà tận hưởng cái diễm phúc đó, nhìn tôi mà liệu hồn đừng mơ mộng viễn vong!

Tôi cần cả tuần để lấy lại sinh hoạt bình thường. Sau đó tôi sẽ gọi từng Thầy D để lấy kết quả số người tham dự KQ63D Hội Ngộ 2011, rồi tôi sẽ bàn với trưởng ban tổ chức Vũ Ngô Dzũng đề lấy quyết định tổ chức hội ngộ hay không. Mọi quyết định là của anh Dzũng và tuỳ thuộc vào sự tham dự của tất cả anh em, tôi chỉ là nguời vận động.

Tôi sẽ có bài viết về chuyến đi của tôi trên blog nầy, nhưng thời giờ tôi quá eo hẹp, mong anh em thông cảm cho tôi thêm thời gian. Cám ơn anh em và quý vị thân bằng quyến thuộc. tth

Chuyện Tình Buồn Trăm Năm - Mai Thiên Vân, Quang Lê

Click Vào Đây - Nhạc phẩm Chuyện Tình Buồn Trăm Năm/ca sĩ Mai Thiên Vân, Quang Lê

Khóc Thầm - Như Quỳnh

Click Vào Đây - Nhạc phẩm Khóc Thầm/Ca sĩ Như Quỳnh