Thiếu nữ Việt Nam

Thiếu nữ Việt Nam
quá dễ thương

Wednesday, March 31, 2010

Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân - Phạm Tín An Ninh


Tôi đi Houston dự Lễ Hội Quan Âm và thăm tro cốt của bà xả tôi, về nhà từ chiều Chủ Nhật, hôm nay là Thứ Tư, ba ngày trôi qua! Lòng tôi vẫn còn buồn rã rượi, tôi chẳng muốn đi ra ngoài ăn, nằm nhà một mình tôi ăn tạm mấy món cũ của cô em mua cho tôi ở Houston từ hôm Chủ Nhật. Trưa nay tôi nhất định ra nhà hàng ăn để lấy sức, không khéo sẽ bị bịnh. Ăn thật no, về tới nhà tôi buồn ngủ. Tôi định mở laptop đọc sơ email rồi ngủ.

Trời! tình cờ tôi đọc email của Thầy D Thạnh có kèm theo bài viết "Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân" của Phạm Tín An Ninh, tôi tỉnh ngủ. Mới đây tôi có đọc bài nầy một lần rồi, tôi không nhớ rõ tôi đọc ở đâu, nhưng hình như bài đầu ấy do chính đương sự viết nên chưa được trau chuốt thi vị như lần nầy.

Bà xả tôi, cũng gái Huế lớn lên ỏ Đàlạt, cũng lấy chồng lính, giá thử giờ nầy bà xả tôi còn, tôi cho bà xả tôi đọc bài nầy, để bà xả thấy cái may mắn của vợ chồng tôi.

Địa danh trong bài nầy, nào là thành phố Phú Bổn (Cheo Reo), thành phố Cung Sơn....những địa danh nầy tôi đã từng bay qua không biết bao nhiêu lần. Nhất là Phú Bổn, tôi thường đáp máy bay ở đây để đổ xăng và ăn trưa vào những năm 1964, 1965.

Những hình ảnh thân yêu nầy, lồng thêm câu chuyện đầy nghiệt ngã, cộng thêm nhớ thương vợ mới mất, làm tôi nước mắt ràn rụa như chính chuyện của mình.

tth

Sau đây là chuyện "Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân".


Hơn hai mươi năm nay, từ ngày đến định cư tại Na-Uy, một nước Bắc Âu nổi tiếng với những mùa đông dài băng gía, nhưng lại rất đẹp vào ngày hè và lãng mạn vào thu, tôi vẫn giữ thói quen đi len lỏi trong rừng, không chỉ vào những ngày nghỉ cuối tuần mà bất cứ lúc nào thấy lòng mình trăn trở. Không phải tò mò vì những cuộc tình cháy bỏng trong "Rừng Na-Uy", cuốn tiểu thuyết nổi tiếng mới đây của một ông nhà văn Nhật Bản, nhưng để được lắng nghe những tiếng khóc. Tiếng khóc của cây lá, của gỗ đá trong rừng. Tiếng khóc có mãnh lực quyến dụ tôi, thúc bách tôi, cho dù nó đã làm tôi đau đớn, khốn khổ gần cả một đời.

Tôi sinh ra ở Huế, nhưng lớn lên ở thành phố Nha Trang, sau khi cùng cả nhà theo cha tôi vào đây nhận nhiệm sở mới. Có lẽ ngày ấy tôi là một cô gái khá xinh. Ngay từ năm tôi học lớp đệ lục trường Nữ Trung Học , cũng đã có vài chàng học trò khờ khạo si tình, đạp xe theo sau tôi những buổi học tan trường. Lên năm đệ tam, cũng có vài chàng SVSQ Hải Quân, Không Quân chờ trước cổng trường tán tỉnh. Nhưng như là số trời, trái tim tôi chỉ rung động trước một người. Anh là bạn chí thân với ông anh cả của tôi, hai người học cùng lớp thời còn ở trường Võ Tánh. Tháng tư năm 68, chúng tôi làm đám cưới, kết thúc một cuộc tình đầu thật dễ thương, không có nhiều lãng mạn, cũng chẳng có điều gì trắc trở. Ông xã tôi là lính Biệt Động Quân. Hậu cứ đóng ở Pleiku. Ngày về làm đám cưới, đôi giầy saut của anh còn bám đầy đất đỏ hành quân. Đám cưới của chúng tôi được tổ chức tại một nhà hàng nằm gần bờ biển, không xa tòa tỉnh, nơi vừa trải qua khói lửa Mậu Thân.

Sau đám cưới, cha mẹ chồng cho tôi theo anh lên Pleiku một tháng, rồi phải trở về sống ở nhà chồng, bởi anh đi hành quân liên miên, không an toàn khi tôi phải sống một mình. Chỉ khi nào tiểu đoàn về hậu cứ dưỡng quân, anh đánh điện tín để tôi lên với anh.

Mãi đến ba năm sau, tôi mới sinh cho anh đứa con đầu lòng. Một đứa con trai bụ bẫm. Có lẽ vì nặng nợ với núi rừng, anh đề nghị tôi đặt tên cho con là Cao Nguyên. Lê Cao Nguyên. Anh về thăm con khi cháu vừa đầy tháng. Càng lớn Cao Nguyên càng giống cha. Đôi mắt to, sóng mũi cao, đặc biệt là trên đầu mỗi vành tai đều có một "lỗ tai nhỏ" như ba nó.

Chỉ đúng một tuần sau khi chia tay vợ con về với đơn vị, anh bị thương nặng trong lúc đơn vị hành quân giải vây căn cứ Pleime. Tôi bồng con lên Pleiku. Hậu cứ lo cho mẹ con tôi nơi ăn chốn ở và có xe đưa đón mỗi ngày để tôi thăm và săn sóc anh mỗi ngày trong quân y viện.

Sau khi xuất viện, đôi chân còn đi khập khiễng, nên anh được chuyển về Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn đảm trách một công tác tham mưu ở hậu cứ. Mẹ con tôi ở lại Biển Hồ với Anh kể từ ngày ấy. Mẹ chồng tôi rất nhân từ, thường xuyên lên thăm chúng tôi và thuê cho tôi một người giúp việc. Cuối năm 1973, trong một lần pháo kích vào trại gia binh làm một số đàn bà con nít bị thương, trong đó có cháu Cao Nguyên. Rất may, mảnh đạn gây một vết thương khá lớn ở cánh tay, nhưng không vào xương. Sau hôm ấy, chúng tôi ra thuê một căn nhà bên ngoài doanh trại để ở. Năm sau khi Cao Nguyên vừa tròn hai tuổi, tôi sinh đứa con thứ nhì. Lần này là con gái. Con bé giống mẹ, được chúng tôi đặt tên Thùy Dương để nhớ thành phố biển Nha Trang, nơi hai chúng tôi lớn lên và yêu nhau.

Mấy năm sống ở Pleiku, cái thành phố "đi dăm phút trở về chốn cũ" ấy, những ngày nắng chỉ thấy toàn bụi đỏ, còn những ngày mưa bùn bám dính gót chân. Pleiku đúng là một thành phố lính. Những người vợ lính sống ở đây dường như chỉ để chờ chồng trở về sau những cuộc hành quân, hoặc để chăm sóc chồng những ngày bị thương nằm trong quân y viện. Với họ thì đúng là "may mà có anh đời còn dễ thương". Trong số ấy đã có biết bao người trở thành góa phụ!


Giữa tháng 3/75, sau đúng một tuần Ban Mê Thuột mất vào tay giặc. Một buổi sáng, từ bản doanh Liên Đoàn về, anh hối hả bảo mẹ con tôi và chị giúp việc thu dọn đồ đạc gấp, bỏ lại mọi thứ, chỉ mang những gì cần thiết, nhất là thức ăn và sữa cho các con, theo anh vào hậu cứ.

Khi vừa đến cổng trại, tôi ngạc nhiên khi thấy tất cả mọi người đều đã ngồi sẵn trên xe. Chúng tôi rời khỏi doanh trại. Thành phố Pleiku như đang ngơ ngác trước những người từng bao năm sống chết với mình nay vội vàng bỏ đi không một tiếng gĩa từ. Đang giữa mùa xuân mà cả một bầu trời u ám. Pleiku tiễn chúng tôi bằng một cơn mưa đổ xuống khi đoàn xe vừa ra khỏi thành phố. Đến ngã ba Mỹ Thạnh, đoàn xe dừng lại. Phía trước chúng tôi dày đặc xe và người, vừa dân vừa lính, đủ các binh chủng, đủ các loại xe, kể cả xe gắn máy. Tôi nghe chồng tôi và bạn bè nói là ngoài lực lượng xung kích mở đường, một số đơn vị Biệt Động Quân còn được chỉ định đi sau, ngăn chặn địch quân tập hậu để bảo vệ cho đoàn quân di tản! Đây là trách nhiệm nguy hiểm và nặng nề nhất trong một cuộc hành quân triệt thoái.

Hơn một ngày mò mẫm trên Tỉnh Lộ 7, chúng tôi đến thị xã Hậu Bổn vào lúc trời sắp tối. Vừa dừng lại chưa kịp ăn cơm thì bị pháo kích và súng nổ khắp nơi. Xe và người dẫm lên nhau trong cơn hốt hoảng. Địch đã bao vây. Các đơn vị BĐQ chống trả kiên cường, nhưng địch qúa đông, mà bên ta thì vừa quân vừa dân chen chúc nhau hỗn độn. Trong lúc nguy nan này trời lại giáng xuống cho bên ta thêm một điều bất hạnh: Một chiếc phản lực cơ dội bom nhầm vào quân bạn. Đoàn xe vội vã rời Hậu Bổn, di chuyển đến gần Phú Túc thì lại bị địch tấn công từ khắp hướng. Nhiều xe bốc cháy và nhiều người chết hoặc bị thương. Cả đoàn xe không nhúc nhích được. Chúng tôi có lệnh bỏ lại tất cả xe cộ, băng rừng tìm đường về Củng Sơn.

Chồng tôi, vừa chiến đấu vừa dẫn đường chúng tôi cùng một số binh sĩ, vợ con. Tôi dắt theo Cao Nguyên còn chị giúp việc bồng cháu Thùy Dương. Chúng tôi lầm lũi trong rừng. Tiếng súng vẫn còn ầm ĩ, những viên đạn lửa như muốn xé màn đêm. Khi chúng tôi mệt lả cũng là lúc đến bờ một con suối nhỏ. Chồng tôi lo chỗ ngủ cho mẹ con tôi dưới một gốc cây, rồi cùng một số đồng đội chia nhau canh gác. Mệt qúa, tôi ngủ vùi một giấc, thức giấc thì trời vừa sáng... Chúng tôi lại tiếp tục lên đường. Tôi không còn đủ sức để bồng Cao Nguyên, nên chồng tôi phải dùng cái võng nilong gùi cháu sau lưng, bên ngoài được phủ bằng cái áo giáp. Vừa ra khỏi bìa rừng tôi ngạc nhiên khi thấy từng đoàn người lũ lượt kéo nhau đi cùng hướng chúng tôi, trong đó có nhiều người vừa bị thương, mình đầy máu. Tôi nghĩ họ cũng là những vợ chồng, con cái, cha mẹ dắt dìu nhau đi tìm sự sống. Hình như họ không còn mang theo bất cứ thứ gì. Nhìn nét mặt ai nấy cũng kinh hoàng. Chồng tôi bàn bạc cùng một số bạn bè trong đơn vị, chúng tôi lại tách khỏi đám đông này, tìm một lộ trình khác mà đi, để tránh sự phát hiện của địch.

Vừa rời đoàn người chừng vài phút thì đạn pháo thi nhau rớt xuống. Tiếng la khóc thất thanh cộng với tiếng súng nổ khắp nơi làm cho cả một khu rừng như trải qua một cơn địa chấn. Trong nhóm chúng tôi cũng có một số người đã chết. Đến lúc này thì mạnh ai nấy tìm đường sống. Gia đình tôi cùng gia đình vài người bạn nữa chạy vào khu rừng phía trước, nơi không nghe tiếng súng. Kinh nghiệm bao nhiêu năm chiến trận, bây giờ chồng tôi chỉ còn dùng để mong cứu được vợ con mình. Địch quân tràn ngập. Một số đơn vị tan rã. Đồng đội kẻ chết người bị thương. Có thể một số đã bị bắt. Tôi không thể tưởng tượng được số mệnh bi thảm của những người lính Biệt Động Quân một thời oanh liệt trên khắp chiến trường, giờ này lại tan tác trong bất ngờ, tức tưởi! Chồng tôi suýt bật khóc, khi nghe cấp chỉ huy truyền lệnh từ ông tướng tư lệnh Quân Đoàn: "Đạp lên mà đi!". Trong cả đời binh nghiệp, chắc những người lính không còn nhận được cái lệnh nào đau đớn hơn thế nữa.

Sau chừng một tiếng đồng hồ băng rừng, chúng tôi bất ngờ gặp một toán lính hơn 20 người thuộc tiểu đoàn cũ của chồng tôi... Thầy trò chưa kịp nắm tay mừng rỡ thì súng nổ. Địch quân phía trước mặt. Trở lại cương vị chỉ huy, chồng tôi lưng mang con, điều động anh em xông vào trận mạc. Một cuộc đánh tốc chiến, toán địch quân bị tiêu diệt. Chồng tôi quay lại tìm và hướng dẫn đám đàn bà con nít chúng tôi đi tiếp.

Trong núi rừng đêm xuống thật nhanh. Cái bóng tối bây giờ thật rợn người. Tôi hình dung cái bóng của tử thần. Chúng tôi dừng lại trên một ngọn đồi thấp. Tôi nghiệp cho những người lính trung thành. Đáng lẽ họ lợi dụng bóng đêm để đi tiếp, vì đó là sở trường của họ, nhưng thấy một số vợ con bạn bè cùng vài anh em bị thương không thể đi nổi, nghe lời chồng tôi, tất cả cùng ở lại qua đêm. Sau khi sắp xếp anh em phòng thủ, chồng tôi trở lại phụ lo chỗ nằm cho mẹ con tôi. Tối hôm ấy, dù mệt, nhưng sao tôi cứ trằn trọc, không ngủ được. Chồng tôi ôm tôi dựa vào một gốc cây. Anh ôm tôi thật chặt vào lòng, thỉnh thoảng hôn nhẹ tôi, trên môi, trên tóc. Trong hoàn cảnh này chẳng ai còn lòng dạ nào để lãng mạn yêu thương, nhưng có lẽ anh tội nghiệp cho một người con gái đã trót chọn chồng là lính chiến. Và cũng không ngờ đó là những nụ hôn cuối cùng anh dành cho tôi.

Buổi sáng sớm khi vừa xuống chân đồi, chúng tôi chạm súng với địch. Cũng là lần cuối tôi chứng kiến những người lính Biệt Động can trường. Các anh phân tán từng toán nhỏ, xông vào lòng địch mà đánh, tiếng thét "Biệt Động Quân Sát" vang dội cả một vùng. Nghe súng nổ, tôi đoán lực lượng địch đông lắm. Một anh trung sĩ bị thương ở cánh tay trong trận đánh hôm qua, được chỉ định dắt tất cả đám đàn bà con nít chúng tôi ra khỏi vùng giao chiến. Đã vậy anh còn phải dìu theo một người lính bị thương khác. Vợ chồng tôi thất lạc nhau kể từ phút ấy. Tôi còn lạc mất cả cháu Cao Nguyên, được ba nó gùi theo phía sau lưng ngay cả những khi lâm trận. Không biết chiếc áo giáp có đủ để che chắn hình hài bé nhỏ của con tôi. Hình ảnh này trước đây tôi nghĩ chỉ có diễn ra trong mấy cuốn truyện Tàu mà tôi đã đọc.

Tiếp tục di chuyển từng vài giờ đồng hồ nữa, khi tới một con đường mòn, chúng tôi lại nghe súng nổ. Anh trung sĩ dẫn đường chúng tôi nhận ra từng loạt lựu đạn nổ, bảo chúng tôi nằm rạp xuống. Chờ im tiếng súng, đám chúng tôi rời con đường mòn, chạy về bên hướng rừng bên phải, mà theo anh trung sĩ, có thể an toàn hơn. Khi đến bìa rừng, tôi thấy mấy người lính BĐQ nằm chết bên cạnh xác quân thù, máu me lai láng. Sau này tôi được biết những người lính này bị địch bao vây, đã tự sát để cùng chết chung với giặc.

Đi vào cánh rừng bên phải chỉ vài trăm mét nửa thì chúng tôi bị một đám khá đông VC chặn lại. Anh trung sĩ bị tước hết vũ khí. Tất cả chúng tôi bị lùa vào bên bờ suối nhỏ. Ở đây tôi gặp một số sĩ quan, binh sĩ của ta bị bắt, nhiều người tay bị trói ngược ra sau, ngồi theo hàng dọc quay lưng ra suối, trước họng súng sẵn sàng nhả đạn của kẻ thù. Tôi cố ý tìm xem, nhưng không thấy chồng tôi trong số người bị bắt. Lòng tôi lo âu vô hạn. Từ lúc ấy, tiếng súng tạm im, chỉ còn tiếng quát tháo và tiếng nói rất khó nghe của đám người thắng trận. Tất cả chúng tôi bị lùa về địa điểm tập trung, một ngôi trường nằm trong huyện Củng Sơn (Sơn Hòa).

Trong cảnh khốn cùng này, tôi chỉ còn lại một điều may mắn: Chị giúp việc rất tốt bụng và trung thành. Vừa bồng bế, bảo bọc cho cháu Thùy Dương, vừa lo lắng cho tôi. Chị đi đâu đó xin cho tôi nửa bát cơm, nhưng tôi không nuốt nổi, mặc dù đã trải qua hai ngày đói khát. Nhìn đứa con gái vừa mới lên hai lây lất bên cạnh và nghĩ tới chồng tôi và đứa con trai giờ này không biết sống chết ra sao, lần đầu tiên tôi bật khóc.

Cuối cùng thì tôi cũng lần mò về đến Nha Trang, khi thành phố này cũng vừa lọt vào tay giặc. Khi nhận ra tôi, mẹ tôi ôm tôi vào lòng và khóc như mưa. Tôi không đủ can đảm để mang tin buồn đến nhà chồng, nhờ cha tôi sang báo tin tôi và cháu Thùy Dương vừa mới về nhà, chồng tôi và cháu Cao Nguyên còn đang mất tích. Cả nhà chồng kéo sang thăm tôi, bồng cháu Thùy Dương về nhà chăm sóc. Mẹ chồng tôi thẫn thờ cả mấy ngày liền khi nhận được tin này. Nằm nhà hơn một tuần, nhờ mẹ tận tình chăm lo, sức khỏe tôi đã gần bình phục, tôi xin được trở lại Phú Bổn tìm chồng và cháu Cao Nguyên. Cả nhà tôi và cha mẹ chồng đều ái ngại, âu lo. Nhưng qua sự nài nỉ của tôi, cuối cùng cha mẹ chồng cho đứa em trai út của chồng tôi, dùng xe honda chở tôi ngược đường lên Tỉnh Lộ 7.

Mặc dù đã chứng kiến bao nhiêu máu lửa tang tóc, cũng như đã chuẩn bị tinh thần, nhưng tôi thực sự kinh hãi những gì trước mắt, khi nhìn thấy ngổn ngang bao nhiêu xe cộ bị đốt cháy, những bộ xương người còn vương vãi đó đây, bao nhiêu nấm mộ bị lấp vội bên đường. Cả một vùng xông mùi tử khí. Chiếc khăn bịt miệng tẩm ướt dầu Nhị Thiên Đường đã giúp tôi và cậu em vượt qua chặng đường gần 100 cây số. Đến Cheo Reo, hỏi thăm một vài người dân, được biết một số sĩ quan bị bắt làm tù binh, đang còn giam ở Thuần Mẫn. Chúng tôi đến đó, trình giấy phép đi tìm chồng của Ủy Ban Quân Quản mới được cho vào trại. Sau khi tên VC trực ban cho biết không có tên chồng tôi trong danh sách tù binh, tôi xin được gặp bất cứ sĩ quan nào cùng đơn vị với chồng tôi. Rất may, tôi gặp được anh đại đội phó lúc chồng tôi còn ở tiểu đoàn. Anh cho biết là có gặp một số binh sĩ cùng chồng tôi chiến đấu dưới ngọn đồi gần đèo Tu Na. Họ cho biết chồng tôi bị thương, nhưng cố tìm cách đưa cháu Cao Nguyên đến một nơi nào đó. Tôi sáng lên niềm hy vọng. Ngay hôm ấy tôi thuê năm người thượng, theo tôi lần theo con đường dọc bờ sông mà tôi còn nhớ, trở lại khu đồi thấp, rồi bung ra xa đi tìm. Liên tục trong một tuần, chúng tôi chỉ tìm được mấy bộ xương người, một số mộ vô danh, nhưng không thấy dấu vết của chồng tôi. Tôi trở về mang theo niềm tuyệt vọng, không chỉ cho tôi, mà cho cả nhà chồng.

Cha mẹ chồng tôi lập bàn thờ cho chồng tôi và Cao Nguyên, đứa cháu đích tôn của ông bà. Ngày 19 tháng 3 là ngày giỗ của hai cha con.

Hàng năm, cứ đến ngày này, tôi và Thùy Dương đều trở lại Phú Bổn, tìm đến chân đồi, dưới gốc cây nằm giữa đỉnh đồi, mà đêm cuối cùng chồng tôi ôm tôi vào lòng, thắp hương tưởng niệm anh và cháu Cao Nguyên. Tôi đã dùng dao khắc đậm tên anh và cháu Cao Nguyên vào thân cây. Lần nào, khi nước mắt ràn rụa, trong tiếng gió rừng, tôi mơ hồ như có tiếng khóc từ gốc cây này, rồi văng vẳng bao nhiêu tiếng khóc từ những thân cây khác, từ những khúc gỗ nằm vương vãi do bom đạn hôm nào, tạo thành những âm thanh não nùng, xé ruột.

Tôi đã mang dư âm của tiếng khóc ấy đến tận Bắc Âu, nơi mẹ con tôi định cư sau chuyến vượt biển được một chiếc tàu của vương quốc Na Uy cứu vớt. Tháng 5 năm 1985, cha mẹ chồng tôi góp vàng cùng một người bạn ở vùng biển Lương Sơn đóng ghe vượt biển. Tôi, cháu Thùy Dương, và một đứa em trai của tôi đi cùng với gia đình chồng. Tôi cũng xin được một chỗ cho chị giúp việc lúc trước (chị đã về quê trên vùng quê Diên Khánh, sau ngày cùng tôi thoát chết trở về), nhưng chị chối từ. Tôi âm thầm gom nhặt tài sản của nhà chồng và của tôi mang lên biếu chị trước khi rời khỏi quê nhà.

Hai mươi năm sau, khi Thùy Dương vừa làm đám cưới, tôi muốn đưa vợ chồng cháu về lại Việt Nam trình diện ông bà ngoại, và đến địa điểm cuối cùng khi chồng tôi và Cao Nguyên còn sống, như là một nghĩa cử để cháu tưởng nhớ đến cha và anh mình. Chúng tôi đến đây vào giữa mùa xuân, một ngày trước ngày giỗ chồng và đứa con trai.

Con đường Tỉnh Lộ 7 ngày xưa bây giờ đã được tráng nhựa và đổi tên thành Quốc Lộ 25. Chúng tôi thuê bao một chiếc xe tám chỗ ngồi. Ngoài tôi và vợ chồng cháu Thùy Dương , còn có vợ chồng cậu em trai út của tôi và vợ chồng chị giúp việc ngày xưa. Chúng tôi đến Cheo Reo, bây giờ có tên mới là A Yun Pa thuộc tỉnh Gia Lai. Tất cả không còn gì dấu vết của chiến tranh. Người ta đã cố tình trát phấn tô son lên thành phố núi này để có dáng dấp của thời kỳ đổi mới. Màu sắc lòe loẹt, vài ngôi nhà cao tầng quê mùa kệch cỡm, những ngôi nhà sàn "cải biên" thành những biệt thự của các ông quan lớn, nằm chơ vơ giữa một vùng nghèo nàn mang tên "thị xã". Nhìn dãy núi Hàm Rồng từ xa, ẩn hiện trong những đám mây mù, lòng tôi chùng xuống. Nơi ấy, đã bao lần tôi đến thăm chồng, để được hòa mình vào đơn vị với những người lính trẻ, sẵn sàng chết cho quê hương. Cũng ở nơi ấy tôi đã vinh dự chứng kiến chồng tôi cùng nhiều anh em đồng đội được ông tướng Vùng gắn huy chương lên ngực áo khi ban nhạc trổi khúc quân hành. Tất cả bây giờ đã trở thành huyền thoại.

Sau khi thuê phòng trọ, tắm rửa và cơm nước xong, chúng tôi hỏi đường đến tháp Yang Mun và tháp Drang Lai. Vì nghe dân ở đây bảo các vị thần Chàm trong hai ngôi tháp này linh thiêng ghê lắm. Tôi khấn vái và xin xăm. Tôi ngạc nhiên vô cùng khi lá xăm tôi bốc trúng lại là bốn câu Kiều của ông Nguyễn Du:

Từ phen chiếc lá lìa rừng
Thăm tin luống những liệu chừng nước mây
Rõ ràng hoa rụng hương bay
Kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thôi.

Tôi bán tín bán nghi, vì nghe nhiều người nói ở Việt Nam, chuyện cúng bái, mê tín dị đoan, bây giờ là một business. Chẳng lẽ ông thần Chàm này lại thuộc cả truyện Kiều. Nghĩ như vậy, nhưng thấy bốn câu thơ lại đúng vào trường hợp của mình, tôi cũng thấy lòng buồn vô hạn. Trở về phòng trọ, bà chủ nhà cho biết ngày mai có chợ phiên của người dân tộc, vừa đông vui vừa có thể mua nhiều thứ thổ sản, gia cầm với gía rất rẻ. Tôi cũng muốn mua mấy con gà, để cúng chồng tôi. Khi còn sống anh thích ăn gà luộc. Bà còn cho biết thêm dân chúng ở vùng này đa số là người Thượng thuộc các sắc tộc Djarai, Bahnar, Hroi và M'dhur. Có một số sống trong các bản rất xa, cách thị xã này từ 10 tới 20 cây số.

Sau một đêm trằn trọc với những cơn ác mộng, vừa mới chợp mắt tôi đã nghe tiếng người réo gọi nhau. Ngôn ngữ của các sắc tộc, tôi không hiểu họ nói gì. Chợ phiên nhóm rất sớm.

Chúng tôi vội vàng ăn sáng rồi kéo nhau ra khu chợ, nằm không xa trước nhà trọ. Tôi có cảm giác lạ lẫm vì đây là lần đầu tiên tôi đến một buổi chợ phiên của người sắc tộc. Đã vậy vợ chồng cháu Thùy Dương cứ theo hỏi tôi điều này điều nọ. Khi đang cố giải thích về nguồn gốc người Thượng, chúng tôi đến một quày gà. Những con gà tre nhỏ xíu được nhốt trong mấy cái lồng đan bằng tre. Tôi ngồi xuống lựa hai con gà béo nhất, bảo người chủ bắt hộ hai con gà này ra khỏi lồng. Người chủ là anh đàn ông người Thượng vừa đen vừa ốm, nói tiếng Việt chưa sõi...Khi Anh xăn tay áo lên và thò tay vào lồng gà, tôi bỗng giật mình khi phát hiện vết sẹo trên cánh tay trái. Vết sẹo có hình dáng đầu một con cọp. Tôi nhớ tới Cao Nguyên, đứa con trai ba tuổi, bị thương trong trận pháo kích của VC vào trại gia binh ở Biển Hồ. Vết thương trên cánh tay cháu sau khi chữa lành cũng để lại một vết sẹo có hình ảnh đầu một con cọp. Biểu tượng binh chủng BĐQ mà chồng tôi luôn mang trên vai áo.

Tôi biến sắc, nắm chặt cánh tay anh người Thượng và nhìn vào mặt anh ta. Cũng hai con mắt khá to, cũng cái sống mũi cao, nhưng khuôn mặt cháy nắng, mái tóc mầu nâu sậm như mầu đất đỏ Pleiku. Không có nét đẹp của Cao Nguyên ngày trước. Anh người Thượng ngượng ngùng, cúi mặt xuống, khựng lại. Nhưng tôi chợt nhớ ra trên vành tai của Cao Nguyên có một lỗ tai nhỏ, giống như ba của nó, tôi cúi xuống để nhìn kỹ vào tai anh người thượng. Tôi bàng hoàng khi nhận ra hai cái lỗ tai nhỏ trên hai vành tai. Bất giác, tôi ôm chầm lấy anh và nước mắt trào ra. Nhưng anh bán gà đẩy mạnh tôi ra và nói một tràng tiếng Thượng. Vợ chồng cháu Thùy Dương ngơ ngác nhìn tôi, không biết xảy ra điều gì. Nghĩ tới chị giúp việc ngày trước có thể xác nhận cùng tôi đôi điều kỳ lạ, tôi báo cháu Thùy Dương đi gọi chị từ gian hàng hoa lan phía trước. Tôi kéo chị ra xa và nói vào tai chị:

- Chị nhìn kỹ anh người Thượng này xem có giống ai không?


Sau một lúc nhìn không chớp mắt, mặt chị biến sắc, rồi không trả lời tôi mà thì thầm một mình:

- Thằng Nguyên? Chả lẽ là thằng cu Nguyên?

Rồi chị nhìn thẳng vào mặt anh ta hỏi:

- Mày có phải là thằng Nguyên, Lê Cao Nguyên không?

Anh người Thượng lắc đầu.

- Tao là thằng Ksor Tlang.

Tôi mua hết những lồng gà hôm ấy và đưa cho anh một nắm tiền. Sau khi đếm xong anh trả lại cho tôi hơn một nửa, rồi buột miệng:

- Mày bắt cái con gà nhiều tiền qúa!

Tôi mất hết bình tĩnh, bảo vợ chồng chị giúp việc đứng giữ anh ta, rồi chạy vào phòng trọ tìm bà chủ nhà. Tôi kể rất vắn tắt những gì đã xảy ra. Có lẽ bà ta là người có tai mắt ờ đây, nhưng là một người tốt bụng, nhấc điện thoại gọi công an. Chưa đầy ba phút hai gã công an chạy tới bằng xe gắn máy, một Kinh một Thượng, cúi đầu chào bà chủ. Chưa kịp nói gì, bà chủ kéo tay hai gã công an ra chợ. Vừa đi bà vừa giải thích. Đến nơi, gã công an nói một tràng tiếng Thượng. Tôi không hiểu gì nhưng thấy anh bán gà gân cổ cãi lại. Cuối cùng hai người công an kéo anh đi, mặc dù anh cố tình chống lại. Chúng tôi đi theo phía sau trở về
phòng trọ.

Qua trung gian của bà chủ nhà trọ, tôi nhờ gã công an giúp tôi, dịch lại các điều trao đổi giữa tôi và anh bán gà, và cố gắng bằng mọi cách tìm ra tông tích của anh ta. Tôi nhét vào tay bà chủ nhà trọ hai tờ giấy bạc 100 đô la.

- Em có cha mẹ không? Tên ông bà là gì?
- Tôi có cha mẹ. Cha tôi tên Ksor H'lum, mẹ tôi tên H'Nu
- Có anh em không?
- Không.
- Anh có nhớ ngày sinh không?
- Không.
(Gã công an nhìn sang tôi, bảo là sẽ đi tìm khai sinh sau)
- Anh có nhớ lúc còn nhỏ, khi ba, bốn tuổi anh ở đâu không?
- Không! Thì chắc tôi ở với cha mẹ tôi mà.
- Cái sẹo trên cánh tay trái, anh biết vì sao mà có cái sẹo này không?
(Gã công an bảo anh xăn tay áo lên và chỉ vào vết sẹo)
- Không! Chắc là bị cành cây đâm trúng.

Tôi thở ra thất vọng. Nhưng vừa chợt nghĩ ra điều gì, tôi lại hỏi:

- Cha mẹ anh đang ở đâu?
- Buôn Ban Ma Dek.
(Gã công an nhìn tôi, bảo buôn Ban Ma Dek cách đây hơn 10 cây số)
- Anh ở chung với cha mẹ anh?
- Không, ở bên cạnh, với vợ và hai đứa con.
- Đã có vợ con rồi à! Tôi buột miệng.

Tôi đề nghị hai gã công an cùng đi với chúng tôi và anh bán gà về buôn Ban Ma Dek. Sau khi hỏi nhỏ bà chủ nhà trọ, hai gã công an gật đầu. Nhưng bảo chúng tôi phải thuê xe ôm, vì về buôn Ban Ma Dek chỉ có đường rừng, xe ô tô không chạy được. Bà chủ nhà trọ gọi giùm chúng tôi bảy cái xe ôm.

Cha mẹ của anh bán gà đã khá gìa, trước đây chỉ sống lẻ loi trong núi nên không nói được tiếng Việt. Chúng tôi lại trao đổi qua sự thông dịch của gã công an người Thượng. Vợ và hai con của Ksor Tlang thấy có nhiều người cũng chạy sang nhìn.

Lúc đầu, ông bà cứ nhất quyết Ksor Tlang là con đẻ của ông bà. Nhưng thấy tôi khóc lóc, năn nỉ và nhờ gã công an gạn hỏi, cuối cùng ông cha mới kể lại sự thực.


- Năm ấy, lâu rồi, sau mấy ngày chiến trận ác liệt, mà vợ chồng tôi phải nằm suốt sau tảng đá to trước nhà để tránh đạn. Bỗng một buổi chiều có người lính mặc áo rằn ri, bị thương nặng lắm, nhưng cố lết vào dưới căn nhà sàn của tôi rồi gục chết, trên lưng có mang một đứa bé. Nó là thằng Ksor Tlang bây giờ.

- Rồi xác của người lính đó ở đâu? Tôi hỏi.

Ông chỉ tay ra rừng cây phía trước:

- Tôi đã chôn ông ta dưới gốc cây ấy, rồi rào lại, sợ thú rừng bới lên ăn thịt.

Chúng tôi theo sau hai người công an dìu ông gìa đi về phía khu rừng.

Tôi khóc ngất khi nhìn thấy ngôi mộ lè tè nằm dưới tàng cây, được rào lại bằng những que gỗ nhỏ. Vợ chồng cháu Thùy Dương cũng qùy xuống ôm vai tôi mà khóc. Tôi ngước lên dáo dác tìm Ksor Tlang, thằng Cao Nguyên, đứa con trai duy nhất của vợ chồng tôi. Nó đang đứng bất động, hai tay đang nắm chặt hai đứa con đang trần truồng, đen đúa. Tôi chạy lại ôm hai đứa nhỏ vào lòng, nhưng cả hai đứa trố mắt nhìn tôi dửng dưng, xa lạ.

Tôi khóc lóc, năn nỉ lắm, ông gìa mới cùng vợ chồng và hai đứa con thằng Ksor Tlang về nhà trọ với tôi. Nhờ bà chủ thuê một cậu học trò thông dịch. Suốt một đêm, tôi, cháu Thùy Dương và vợ chồng chị vú giúp việc ngày xưa, giải thích, khóc hết nước mắt, xin vợ chồng Ksor Tlang và hai đứa con theo chúng tôi về Nha Trang ở với ông bà ngoại, rồi tôi sẽ tìm cách đưa sang Na Uy. Cả hai ông bà gìa, nếu muốn, chúng tôi sẽ mua nhà cửa ở Nha Trang và chu cấp cho ông bà sống gần Ksor Tlang. Nhưng cả Ksor Tlang và ông gìa một mực chối từ, bảo là họ không thể nào bỏ bản mà đi. Núi rừng mãi mãi là nhà của họ. Họ không thể nào sống xa rừng cũng như loài cá không thể nào sống mà không có nước.

Dự trù lên đây ba ngày. Vậy mà chúng tôi đã ở lại đây hơn hai tuần rồi. Ban đầu tôi tính xin phép cha mẹ nuôi của Ksor Tlang cho tôi cải táng phần mộ của chồng tôi, mang về an táng ở nghĩa trang gia tộc ở Nha Trang, nhưng rồi tôi đã đổi ý. Bởi anh phải nằm ở đây, bên cạnh đứa con trai và hai đứa cháu nội của anh, mặc dù bây giờ tất cả đã trở thành người Thượng và chắc không biết gì về anh. Và chắc có lẽ anh cũng muốn nằm lại với bao đồng đội, một thời cùng anh vào sinh ra tử, mà linh hồn chắc đang còn phảng phất quanh đây. Tôi mướn thợ xây lại ngôi mộ. Trên tấm bia không có hình chân dung của anh, mà có tấm ảnh anh chụp chung với tôi và hai cháu Cao Nguyên và Thùy Dương trong ngày sinh nhật bốn tuổi của Cao Nguyên, chỉ hơn một tháng trước ngày anh mất. Tấm ảnh này lúc nào tôi cũng mang theo.

Tôi cũng không thể bắt Cao Nguyên và vợ con phải rời khỏi núi rừng, nơi đã cưu mang nó. Có lẽ cái tên Cao Nguyên mà ngày xưa chồng tôi đề nghị đặt cho nó đã vận vào cuộc đời của nó. Điều làm tôi đau đớn hơn là tôi chẳng làm được điều gì cho đứa con trai ruột thịt máu mủ của mình, ngoài việc nhờ bà chủ nhà trọ thuê người dựng cho vợ chồng nó và ông bà cha mẹ nuôi một ngôi nhà sàn chắc chắn và rộng rãi hơn, sắm cho vợ chồng nó và hai đứa con một số quần áo mới. Nhưng phải năn nỉ khóc lóc mãi nó mới chịu nhận, cùng số tiền 200 đô la. Bằng đúng số tiền mà tôi trả công cho hai gã công an!

Ngày cuối cùng, chúng tôi ở lại với với vợ chồng Cao Nguyên trên ngôi nhà sàn mới. Buổi chiều tôi bảo Cao Nguyên và vợ con nó, thay quần áo mới, cùng với tôi và vợ chồng Thùy Dương ra thắp hương trước mộ ba nó. Nó qùy bên cạnh tôi, cúi đầu nói điều gì lầm thầm trong miệng và khi ngước lên, đôi mắt đỏ hoe. Suốt đêm hôm ấy, tôi ngồi khóc một mình. Tôi nghĩ tình mẫu tử thật thiêng liêng, nhưng có lẽ ông trời đã phạt tôi. Tôi sinh ra Cao Nguyên, nhưng không bảo vệ được con mình, để mất nó trong núi rừng này từ ngày nó mới lên bốn tuổi.


Tôi rời khỏi Cheo Reo, chạy ngược về cầu sông Ba theo Tỉnh Lộ 7 ngày xưa, mang theo trong lòng nỗi đau đứt ruột. Đang giữa mùa xuân nhưng cả bầu trời nhuộm màu ảm đạm. Nhìn núi rừng hai bên đường, trong ràn rụa nước mắt, tôi mơ hồ như cây lá không còn nữa, mà tất cả đều mang hình dáng của những bộ xương người nối tiếp nhau, trùng điệp. Tai tôi nghe trăm ngàn tiếng khóc quyện vào trong gió. Không biết đó là tiếng khóc của người hay tiếng khóc của cây?

Phạm Tín An Ninh
(Phỏng theo lời kể của một người vợ lính BĐQ)

Mùa Thu Chết - Julie

Click Vào Đây - Nhạc phẩm Mùa Thu Chết/Ca sĩ Julie

Còn Thương Rau Đắng Mọc Sau Hè - Như Quỳnh

Click Vào Đây - Nhạc phẩm Còn Thương Rau Đắng Mọc Sau Hè/Ca sĩ - Như Quỳnh

Monday, March 29, 2010

Lễ Hội Quan Âm năm 2010 tại chùa ViệtNam Houston


Phật Ngọc



Lễ chính Hội Quan Âm năm 2010















Em,

Lễ Hội Quan Âm năm nay thiếu vắng em, vì thiếu vắng em nên anh nôn nóng về Houston sớm hơn mọi năm.

Lễ chính vào ngày Thứ Bảy, vậy mà sáng Thứ Năm anh đã vội vã về Houston, anh lái xe thẳng về chùa ViệtNam để thăm tro cốt của em. Anh lái xe vô chùa, rất đông Quý Thầy và Phật Tữ đang bận rộn trang trí lễ đài xung quanh tượng Phật Bà.

Vì ai nấy đang bận rộn nên không ai để ý tới ai, anh âm thầm leo lên chổ rải tro cốt của em sau lưng tượng Phật Bà. Tro cốt của em được rải hôm “Christmas Eve” 2009, tro cốt được rải rác mấy chổ, ba tháng trôi qua với bao nhiêu mưa giông, vậy mà tro cốt vẫn còn nguyên. Anh rờ tro cốt em, anh có cảm giác như cát mịn nên gió thổi khó ảnh hưởng, cũng nhờ những núi nhân tạo và các bui trúc nên gió khó lồng vô, hơn nữa nước mưa làm tro cốt lắng chặt xưống đất. Vậy là tro cốt của em chỉ có lắng dần xuống lòng đất, dù cho mưa thật to, tro cốt của em cũng không trôi đi được vì có thành xi măng chung quanh. Anh hết sức vui và an tâm về tro cốt của em.

Rời chổ rải tro cốt của em, anh vô chùa chào Hoà Thượng Viện Chủ và Thầy Nguyên Đạt. Hoà Thượng Viện Chủ hỏi anh ăn sáng chưa, anh nói rồi để rút lui vì Hoà Thượng bận rộn lo trang trí chổ Phật Ngọc trước chánh điện. Anh cũng gặp Thầy Trung Nghiêm đang lo trang trí trong chánh điện.


Hình tro cốt chụp sáng Thứ Năm. Click vào hình để xem hình lớn.


Thăm tro cốt của em xong, anh đến nhà đón anh bs Thanh đi ăn trưa với anh, rồi anh về nhà cháu Nhã ngũ trưa, năm nay anh ngũ nhà Nhã luôn ba đêm.

Có anh chị Đặng về từ Miami Florida để dự Lễ Hội Quan Âm. Tối Thứ Năm anh mời anh chị Đặng, anh chị Thanh, anh chị Hạnh, anh chị Thuyên, vợ chồng cháu Nhã ra nhà hàng ăn tối.

Ngày Thứ Sáu:

Sáng sớm Thứ Sáu anh đi ăn sáng với Triết và đánh tennis. Đến trưa anh và anh Thanh đi lang thang ăn trưa.

Tối Thứ Sáu là lễ cắt băng khai mạc, lễ Chiêm Bái Phật Ngọc và lễ “Nhất Niệm Nhất Bái”. Sau lễ anh đưa anh chị Đặng, anh chị Thanh đi thăm tro cốt em giữa đêm khuya, rồi sau đó anh chị Thanh mời phái đoàn ra nhà hàng ăn bánh xèo khuya.
Sau khi lễ khai mạc tối Thứ Sáu, giữa đêm khuya anh đưa anh chị Thanh bên trái, anh chị Đặng bên phải, một bà bạn với anh Thanh về từ Florida đứng giửa, đến thăm tro cốt em. Anh Thanh bị lạnh quá, nên mượn mũ, áo tràng của bà bạn làm "Sư Cô" bất đắc dĩ!

Chị Đặng thấy chổ rải tro cốt của em, chị thích lắm. Hoà Thượng Viện Chủ cũng là vị lãnh đạo tinh thần của chùa bên chị Đặng ở Miami nên anh nói: “Chị xin Hoà Thượng Viện Chủ để sau nầy rải tro cốt chị ở đây cho có bạn với bà xả tôi”. Chị Đặng cười.

Ngày Thứ Bảy:

Sáng sớm Thứ Bảy anh đi ăn sáng với Triết, rồi đánh tennis. Đánh tennis xong anh ra tiệm Phở Tàu Bay ăn trưa với anh chị Triết để gặp KQ Hiển (Tây lai) ở Houston và KQ Chấn ở Florida về, và thêm vài người bạn của Hiển và Chấn.

Trời! nhìn Hiển đau lòng lắm em ơi! Hiển bị cancer gan, bụng sưng to, da vàng khè, thỉnh thoảng nó phải vô nhà thương đễ được rút nước trong gan ra. Hiển vẫn cười giởn ăn uống như thường. Anh giành trã tiền bửa cơm trưa, vì anh nghĩ anh không còn dịp mời Hiển ăn nữa đâu!

Thấy Hiển anh nhớ thương em vô vàn, em cũng bị cancer gan, thật là phúc đức cho hai đứa mình, hình ãnh đau thương nát lòng ấy không xảy ra cho em, nếu không thì làm sao anh sống nỗi! Anh tạ ơn Chư Phật đã cho hai đứa mình cái diễm phúc đó.

Ăn trưa xong, anh lật đật về nhà Nhã tắm rửa thay áo quần, rồi anh lái xe đến nhà Ti để gặp Tuyết, Sương vừa về từ Dallas.

Từ nhà Ti anh vô thẳng chùa ViệtNam để dự lễ Hội Quan Âm. Tuyết, Sương, Ti chờ Kiếu về rồi đi sau.

Lễ Hôi Quan Âm năm nay có tất cả 320 Chư Tăng Ni, phật tữ và quan khách thì khó so sánh vì năm nào cũng đông nghẹt.

Lễ Hội Quan Âm Bắt đầu, anh đứng chổ hai đứa mình đứng năm rồi, chấp tay hướng về lễ đài và đặc biệt anh cũng hướng tâm về tro cốt em sau lễ đài. Anh là người duy nhất trong hằng vạn người, hướng về lễ đài Mẹ Hiền Quan Thế Âm Bồ Tát với hai tâm tư!

Đang làm lễ, điện thoại của anh reo liên miên, Tuyết gọi, anh chị Đặng gọi, anh Triết gọi…để tìm anh, cũng nhờ vậy nên anh đở xúc động vì nhớ em.

Sau lễ anh, Tuyết, Ti đưa Sương leo lên chổ tro cốt của em. Trời! Sương bây giờ nặng thấu trời, đưa Sương lên được chổ tro cốt của em thật là khó khăn. Cho Sương thăm tro cốt của em một lần, anh cãm thấy vui.

Nhờ đèn rọi sáng, nên tìm tro cốt em giữa đêm khuya còn dễ hơn ban ngày. Có ai đem một lọ đèn cầy (loại nhỏ để cúng sao hạn, nhìn hình phía dưới) để cạnh tro cốt của em, chắc là bạn của hai đứa mình, họ thương em quá mà!

Văn nghệ năm nay có nhiều ca sĩ. Hệ thống âm thanh năm nay rất tốt. Tuyết, Sương, Kiếu, Minh nghe Ngọc Hạ ca xong thì ra về lại Dallas. Anh cũng không nghe nhạc lâu vì anh mệt quá nên về ngũ.
Tôi đang cầm lọ đèn cầy của ai đem đến cúng bà xả tôi!

Ngày Chủ Nhật:

Sáng Chủ Nhật anh đưa Út và cô 5 Chiếu (bà xả KQ D/T Tuấn) đi chợ và ăn trưa ở tiệm cơm chay, vì anh có mời Thầy Phước Độ, Sư Cô Phước Lượng ăn trưa.

Tối Thứ Bảy nằm ngũ, anh nhớ đến lọ đèn cầy cạnh tro cốt của em, anh lo sợ. Đem đèn nhang ra chổ tro cốt của em rất nguy hiểm, vì cỏ khô, lá trúc khô có thế bắt lữa cháy dễ dàng!

Anh sợ Hoà Thượng Viện Chủ biết có đèn để chổ tro cốt của em, Hoà Thượng sẽ tưởng anh làm, nên sáng Chủ Nhật ăn trưa ở tiệm cơm chay xong trước khi về San Antonio, anh lên chùa để lấy đèn ra, nhưng xe anh không có chổ đậu vì người vẫn còn đông nghẹt, may quá có Út trong xe, anh thả Út xuống và nhờ Út lấy đèn ra giùm anh.

Đây là lời tha thiết yêu cầu của tôi với thân bằng quyến thuộc, bạn hữu xa gần:

- Quý vị nào thương vợ chồng tôi đến thăm tro cốt bà xả tôi, tôi xin tạc dạ tình thương vô bờ bến đó. Nhưng tôi xin quý vị thông cảm, đừng đem đèn, cắm nhang chổ tro cốt của bà bà xả tôi. Chổ nầy toàn cỏ khô, lá trúc khô, có thể bắt lữa cháy dễ dàng.

Chỉ nghĩ đến cháy rụi các bụi trúc và lữa làm hư hại các núi nhân tạo, tôi hãi hùng lo sợ. Ơn của Hoà Thượng Viện Chủ tôi chưa trả, lúc ấy tôi phải nói với Hoà Thượng Viện Chủ làm sao đây!

Quý vị có thể đốt nhang đèn ở bàn thờ trước Phật Bà, cúng Phật Bà xong, rồi hướng tâm về tro cốt bà xả tôi ở sau lưng Phật Bà để cầu nguyện, tôi tin rằng bà xả tôi chỉ mơ ước có được như vậy là quá vui rồi và tôi cũng tin rằng Phật Bà cũng sẽ chứng giám lời cầu nguyện của Quý Vị.

Tôi xin đa tạ Quý Vị. tth

Click Vào Đây - Để xem thêm hình, click vào hình để xem hình lớn

Chuyến Xe Miền Tây - Mạnh Quỳnh

Click Vào Đây - Nhạc phẩm Chuyến Xe Miền Tây/Ca sĩ Mạnh Quỳnh

Tuesday, March 23, 2010

Đi dự Lễ Hội Quan Âm năm 2010 tại chùa ViệtNam Houston

Em,

Lễ Hội Quan Âm đầu tiên ở chùa ViệtNam Houston, anh và em xông xáo bán ăn cho gian hàng chùa Bảo Quang San Antonio, rồi tất cả tiền thâu được cả vốn lẫn lời, phái đoàn chùa Bảo Quang cúng lại chùa ViệtNam.

Rồi những năm sau đó anh và em đều về Houston dự Lễ Hội Quan Âm. Mỗi lần về Houston dự Lễ Hội Quan Âm, lòng anh vui thơ thới vì anh thấy em vui.

Đối với em Mẹ Hiền Quan Thế Âm Bồ Tát là tất cả. Bất cứ nỗi lo âu nào, trong nhà hay ngoài xả hội, em đều cầu nguyện Phật Bà.

Năm rồi em đã ho và yếu, anh nghi lúc bây giờ em đã có cancer trong phổi, nhưng ông bác sĩ trị bịnh cho em xem hình phổi không ra, cancer đầy trong đó mà ông bác sĩ cứ nói vết sẹo! Hôm ấy trời trỡ lạnh bất thường, hai đứa mình phải mượn áo lạnh của anh chị Triết, vậy mà em vẫn đứng chắp tay hướng về lễ đài của Mẹ Hiền Quan Thế Âm Bồ Tát cho suốt buổi lễ. Nhìn em đứng chắp tay tập trung tư tưởng hướng về lễ đài với gương mặt trang nghiêm hiền thục, dễ thương làm sao.

Lễ Hội năm nay, Thứ Bảy nầy, anh sẽ đứng chổ hai đứa mình đứng năm rồi. Anh sẽ đứng chấp tay hướng về lễ đài một mình, em không còn đứng bên cạnh anh nữa. Năm nay anh không những chỉ hướng về lễ đài thôi mà anh còn hướng về tro cốt của em đang nằm phía sau lễ đài. Chao ôi! đau lòng cho anh quá, không biết lúc ấy lòng anh sẽ tan nát đến cỡ nào, liệu anh có đứng nỗi suốt buổi lễ? Điều mà anh phải làm là anh mang theo nhiều giấy để lau mắt và đừng để ai thấy anh khóc. Bất cứ người nào thấy anh khóc là em sẽ thấy, em sẽ giận anh lắm phải không em?

******************
******************

Hai đứa mình về chùa ViệtNam Houston dự Lễ Hội Quan Âm không biết bao nhiêu lần, vậy mà anh không hề nghĩ đến chuyện rải tro cốt của em sau lưng tượng Phật Bà ở chùa ViệtNam Houston, có lẽ vì trong đầu óc anh lúc nào cũng nghĩ đến chuyện rải tro cốt hai đứa mình ở ĐàLạt như ước nguyện của anh và em.

Nhưng rồi giờ chót, em viết cho anh mấy chử, dặn dò anh rải tro cốt em trên xứ Mỹ, chổ nào cũng được. Em khóc và trao cho anh miếng giấy đó, không nói lý do, anh đau lòng không dám hỏi vì em đang bịnh nặng!

Trời! trong cái rủi có cái may. Không được rải tro cốt em ở ĐàLạt, rồi như có đấng linh thiên chỉ dẫn để anh rải tro cốt em ở sau lưng tượng Phật Bà ở chùa ViệtNam Houston. Đây là điều ngoài sự mơ ước của anh và em, anh hết sức vui mừng và anh tin chắc em cũng vui như anh. Vì từ đây hằng năm anh có dịp về dự Lễ Hội Quan Âm và thăm tro cốt của em. Hằng năm có cả chục ngàn người về dự Lễ Hội, tưng bừng náo nhiệt, và anh tin rằng em cũng sẽ tháp tùng phái đoàn của Mẹ Hiền Quan Thế Âm Bồ Tát về dự lễ.

Nếu em tháp tùng Mẹ Hiền Quan Thế Âm Bồ Tát về dự lễ kỳ nầy, nếu có thể em cho anh gặp em, thử coi em ăn mặc ra sao, em bây giờ như thế nào. Anh nói em đừng cười anh nhé! Anh bảo đảm anh sẽ giữ khoảng cách giữa chư thiên và người trần tục, anh không dám có ý nghĩ gặp em riêng tư gì đâu!

******************
******************

Sáng nay anh đưa Thông lên phi trường để đi làm ở Canada, về nhà một mình, anh viết bài nầy, nhớ em vô vàn.

Em mất gần 5 tháng rồi! thời gian là liều thuốc xoa dịu vết thương lòng, nhưng sao thời gian như chưa có hiệu nghiệm cho anh? Điều nầy dễ hiểu quá phải không em? Trên đời nầy anh đâu có diễm phúc tìm được người đàn bà hiền thục thứ hai như em! như vậy vết thương lòng của anh sẽ không bao giờ có cơ hội được xoa dịu. Gặp được em là hồng phúc rồi, được một bây giờ lại đòi hai, anh tham quá phải không em? Không có người như em thì cũng tốt, anh sẽ ỡ vậy, vì anh còn thương em quá mà.

Em biết không? từ ngày em mất, chị bs Thanh là người đầu tiên làm mai cho anh. Chị Thanh nói:

- Bà Yến giao quyền sanh sát của ông cho tôi! Ông muốn gặp bà nào thì phải thông qua tôi. Bây giờ tôi giới thiệu ông con bạn tôi chưa chồng đang ở Miền Bắc, con bạn mà tôi đã dẫn về thăm bà Yến, gặp ông rồi đó.

Anh cười nói:

- Cám ơn chị, lòng tôi đang héo hon, tôi chưa nghĩ tới chuyện đó.

Rồi ở San Antonio cũng có người mai mối! Trong chuyến đi Miami, anh chị Đặng cũng muốn làm mai cho anh. Nhưng tim anh như còn đang nằm trong tay em, anh biết em muốn buông thả nó ra, có lẽ nó chưa chịu đi! Quên đi người hiền thục như em đâu có dễ dàng phải không em?

Anh còn nhớ ngày anh mới quen em, anh nói:
- Anh chỉ làm buồn em khi nào anh mất trí!

Và anh đã giử đúng lời nói, vì 45 năm qua chưa có người đàn bà nào hơn em, có thể làm anh mất trí, nên 45 năm anh thương em lúc cuối cũng như lúc đầu.

******************
******************

Mấy năm qua, anh từng nói với em, anh muốn đưa chú thím 5 Phúc đi du lịch với vợ chồng mình để vui chơi. Nhưng rồi Lucas bị bịnh và mất trong 3 năm, ngay sau đó em bị bịnh và mất, thời gian ấy trôi qua gần 5 năm.

Trời! 5 năm trôi qua bao nhiêu thay đổi. Tuần rồi anh gọi chú 5 Phúc mời chú thím đi cruise Alaska với anh và gia đình Thy. Chú Phúc cãm động và nói:

- Cám ơn anh Thái ơi! Giá thử anh cho em đi mấy năm trước thì em còn đi nỗi, bây giờ em ngồi không được quá hai giờ, vì ngồi lâu bàn toạ đau không chịu nỗi!

Trời! mới ngày nào hai đứa mình lên San Francisco ăn cơm với chú thím, mà bây giờ sức khoẻ chú như vậy! Chú Phúc lớn hơn anh 6 tuổi, vậy là anh chỉ còn 6 năm nữa thôi, phải không em?

Ân nghĩa của anh với chú Phúc, anh không bao giờ quên, vậy mà giờ đây anh hết cơ hội để đền đáp, thật đau lòng cho anh quá!

Nhớ ngày xưa vào một sáng Thứ Bảy, chú Phúc đang trong phòng hành quân của ông Tư Lệnh Không Quân, chú mỡ máy nghe khu trục bỏ bom. Một chiếc khu trục vừa bị bắn rớt ờ vùng Đức Hoà, Đức Huệ gần biên giới Miên.

Qua máy vô tuyến, chú Phúc hỏi tên phi công khu trục bị rớt, và được cho biết phi công tên Huỳnh thông Thái. Chú Phúc rã rời!

Trực thăng Mỹ ở Đức Hoà lên cấp cứu phi công và báo về nhà tìm không được phi công, vì lúc ấy VC đang lùng bắt nên anh đang trốn. Chú Phúc và anh em ở phi đoàn, ai cũng đinh ninh anh chết!

Rồi chiều hôm ấy anh bước vô nhà chú Phúc trong Tân Sơn Nhất, chú Phúc kêu lên:

- Trời! người về từ cỏi chết.

Anh và chú Phúc trò chuyện một lúc, rồi chú Phúc hỏi:

- Anh tính sao anh Thái?
- Tính cái gì chú 5?
- Anh có muốn bỏ khu trục không?

Anh về phi đoàn khu trục mới vài tháng, anh đã đi đám ma chôn anh Phi Đoàn Trưởng, chôn anh Trưởng Phòng Hành Quân. Rồi anh bạn ngũ chung phòng sĩ quan độc thân với anh vừa mất được một tuần thì tới phiên anh bị bắn rớt. Những chuyên nầy anh đã giấu kín em.

Vừa mới thoát chết, nghe chú Phúc mỡ đường cho bỏ khu trục, anh nói:

- Chú 5! bỏ khu trục có được không?
- Để em lo.

Thế rồi chú Phúc lo cho anh về Phi Đoàn 716 ở Tân Sơn Nhất. Nhà mình ở đầu đường Nguyễn minh Chiếu gần lăng cha cả. Được về Tân Sơn Nhất gần nhà, em khỏi phải lo sợ sống một mình giữa đêm khuya, anh mừng và âm thầm mang ơn chú Phúc.

Giờ đây chú Phúc đã già yếu! mộng ước đưa chú thím 5 đi du ngoạn không còn thực hiện được nữa rồi. Thôi thì Tháng Tư anh lái xe đi qua Thy, anh sẽ lái xe lên San Francisco thăm chú thím Phúc rồi anh về Thy sau.

Thôi em nhé! Anh sẽ báo cáo tiếp cho em về Hội Quan Âm 2010. tth

BỒ TÁT QUAN THẾ ÂM - Thúy Vinh & Trang Mỹ Dung

Click Vào Đây - BỒ TÁT QUAN THẾ ÂM/Ca sĩ Thúy Vinh & Trang Mỹ Dung

Monday, March 22, 2010

CON TÀU TRƯỜNG XUÂN


Tôi vừa nhận được email của Dược Sĩ Nguyễn ngọc Thạch từ Houston, kèm theo bài viết về "CON TÀU TRƯỜNG XUÂN" và rất tiếc tôi không rỏ tác giả của bài viết nầy.

Đọc bài "CON TÀU TRƯỜNG XUÂN", nước mắt tôi cứ chảy, tôi post ra đây với hy vọng có người thích đọc.

Cám ơn anh Thạch ơi! Anh Thạch là người cùng quê Thủ Thừa Long An với tôi, anh với tôi cùng lấy vợ gái Huế. Ba Má anh Thạch là bạn thân với Ba Má tôi. Anh chị Thạch ở San Antonio từ 1975, anh chị về hưu và vừa dời về Houston để gần con. tth


Sau đây là bài "CON TÀU TRƯỜNG XUÂN":


Giao Chỉ - San Jose

Tháng 4 năm 1975-Saigon / “ Một con tàu ngơ ngác ra khơi ” (Nam Lộc) / Một thuyền trưởng tuyệt vọng / Gần 4 ngàn hành khách của định mệnh / Cuộc hành trình không bờ bến / Vỏn vẹn 3 ngày hải hành trôi nổi / Hai người tự tử thủy táng / Hai đứa trẻ ra đời / Con tàu kéo Song An, cứu tinh số 1 / Thương thuyền nhân đạo Ðan Mạch, cứu tinh số 2 / Sau cùng, tàu Trường Xuân không chìm được kéo về Hồng Kông với thi hài của người khách cuối cùng: Ðại tá Wong A Sáng, sư đoàn 5 bộ binh / Câu chuyện 34 năm trước được kể lại vào dịp ghi dấu 35 năm sau (1975-2010 ). / Và giới thiệu người con gái của biển Ðông: Chiêu Anh. (Shining Light).

* * *
Có con tầu nằm trên bến đỗ...

Ngày xưa tại Việt Nam gần như chỉ có 1 hãng thương thuyền hàng hải lớn nhất là Vishipcoline của chủ nhân Trần đình Trường. Hiện ông Trường là nhà tư bản có nhiều tài sản và hotel tại Nữu Ước.


Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy.

Một trong các thương thuyền của hãng là tàu Trường Xuân, vị thuyền trưởng lúc đó là ông Phạm Ngọc Lũy. Ông Lũy sinh quán tại Nam Ðịnh, ra đời năm 1919. Vào tháng 5-1975 thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy đã có 30 năm kinh nghiệm hàng hải.

Ngày 26 tháng 4 năm 1975, Trường Xuân đã xuống hàng hoàn tất chuẩn bị chở sắt vụn đi Manila. Một chuyến đi vô thưởng vô phạt. Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy lúc đó 56 tuổi, Bắc kỳ di cư, quyết không ở lại sống với cộng sản. Ông tìm đường ra đi bằng mọi giá. Ông ước mong dùng được Trường Xuân chở đồng bào tỵ nạn. Trên đống sắt vụn của Trường Xuân lần này phải là sinh mệnh của những con người. Ông cần có thủy thủ đoàn và ông cần cả hành khách. Trải qua bao nhiêu là gian nan phức tạp vào cái tuần lễ cuối cùng của cái tháng 4 đen oan nghiệt. Sau cùng tới 29 tháng 4-1975 thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy viết lên tàu hàng chữ định mệnh. Tàu Trường Xuân khởi hành 12 giờ trưa 30/4/75.

Lúc đó thủy thủ đoàn gần 30 người nhưng ông chỉ có vỏn vẹn 5 người. Có lẽ ông cần chừng 300 hay 400 hành khách, nhưng chưa có người nào.

Con tàu Trường Xuân ngủ yên trên bến Saigon giữa đêm 29 rạng ngày 30 tháng 4-1975.

Saigon hấp hối



Tại Saigon mặt trận Long Khánh đã tan vỡ, tất cã 3 quân khu đều nằm trong tay giặc. Chỉ còn miền tây vẫn yên tĩnh. Sáu sư đoàn cộng quân 3 mặt tiến về Saigon. Các đơn vị pháo của Bắc quân đã chuẩn bị trận địa pháo vào thủ đô. Các tiền sát viên chỉ điểm cộng sản đã có mặt tại các vị trí quân sự.

Phi cơ trực thăng Hoa Kỳ đang bay di tản những phi vụ cuối cùng. Nội các mới của Việt Nam Cộng Hòa họp bàn về việc bỏ súng và bàn giao. Ðài phát thanh Saigon chuẩn bị đọc những lời tuyên bố đau thương của tổng thống Dương văn Minh gửi người anh em phía bên kia , xin mời vào nói chuyện. Thủ tướng Vũ văn Mẫu kêu gọi người anh em đồng minh Hoa Kỳ phía bên này, xin vui lòng ra đi.

Giữa mùa hè chói chang, radio của quân đội Hoa Kỳ chơi bài Tuyết Trắng, một ám hiệu kêu gọi ra đi lúc trái gió trở trời. Ðài quân đội Việt Nam Cộng Hòa hát nhạc quân hành trong tuyệt vọng.

Ðó là Saigon của đêm 29 rạng ngày 30 tháng 4-1975. Con tầu Trường Xuân bụng đầy sắt vụn vẫn nằm ngủ yên trên bến sông Khánh Hội. Lửa bắt đầu bốc cháy bên kho đạn Thành Tuy Hạ.

Cô gái thuyền nhân trong bụng mẹ

Cũng vào cái tuần lễ sau cùng của tháng 4 nghiệt ngã đó, có bà sản phụ vào nhà thương ngày 27/4/1975 để chuẩn bị sanh đứa con thứ hai.

Bà dược sĩ trẻ tuổi có mang 9 tháng 10 ngày. Ðứa bé sẽ ra đời bất cứ lúc nào. Bây giờ tính sao đây. Xin mổ để sanh sớm rồi chạy, hay là tìm đường chạy rồi muốn ra sao thì ra. Chợt có được giấy phép di tản bèn bỏ nhà thương vào tòa đại sứ Mỹ. Nhưng rồi máy bay không trở lại. Cộng sản vào đến cửa ngõ Saigon. Gia đình tìm đường xuống Khánh Hội. Tìm ghe chạy ra tàu Trường Xuân sáng 30 tháng 4-75. Bà bầu cùng gia đình, mẹ già, con trai nhỏ 2 tuổi leo giây lên Trường Xuân.

MS Clara Maersk (Denmark) Mother and children.

Gia đình bà dược sĩ Saigon, mới ra trường năm 1972 đã thành những người khách không mời của chuyến hải hành vô định trên tàu Trường Xuân, ra đi xế chiều 30 tháng 4-1975.
Ðứa bé gái hoài thai từ Saigon tự do, nhưng gan lì nằm trong bụng mẹ hay sợ súng đạn nên không chịu chào đời. Cho đến khi Trường Xuân ra đến hải phận quốc tế. Ðứa bé mới chịu ra đời. Ðó là câu chuyện 34 năm trước viết lại cho ngày kỷ niệm 35 năm sau vào tháng năm 2010.

Trở lại với Trường Xuân

Vào chiều 30 tháng 4-1975, con tàu Trường Xuân sau khi đã thành lập xong 1 thủy thủ đoàn tình nguyện và có gần 4,000 hành khách ngẫu nhiên đã lên đường hết sức vất vả trong điều kiện kỹ thuật tồi tệ và bị phá hoại mọi bề.

Hành khách không vé của Trường Xuân gồm đủ tất cả hai ba thế hệ Việt Nam Cộng Hòa, mọi thành phần, mọi giai cấp, mọi hoàn cảnh. Ðủ cả ba ngành lập, hành và tư pháp. Có mặt sĩ nông công thương binh. Không hề thiếu nam phụ lão ấu. Các nghệ sĩ sáng tác và nghệ sĩ trình diễn. Chuyến hải hành vào chân trời vô định với một ông thuyền trưởng nhân đạo và hết sức kiên định. Những tay phụ tá tình nguyện rất xuất sắc và sau cùng định mệnh đã đưa 3,628 con người đi tìm tự do đến được bến tự do.

Thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy đã nói rằng Trường Xuân sẽ không thoát được nếu không có Song An. Song An là ai ? Ðây chỉ là tên con tàu kéo nhỏ bé đang trên đường từ Vũng Tàu về cảng Saigon. Anh già Trường Xuân đang mắc cạn bèn túm lấy đứa bé Song An đòi nó kéo. Vậy mà nó kéo được. Ra đến hải phận, cho đến lúc anh già Trường Xuân tự chạy được bác cháu mới chia tay. Lẽ dĩ nhiên câu chuyện hải hành của đêm dài 30 tháng 4-75 không giản dị như thế ! Với lửa cháy ngập trời Thành Tuy Hạ và tiếng súng đuổi theo trên sông Lòng Tào, đêm hôm đó là đêm dài nhất của cuộc đời Trường Xuân.

Khi anh già Trường Xuân từ giã cậu bé Song An trên đại dương, khách Trường Xuân góp tiền cho Song An trở về Saigon. Hai, ba bị tiền hàng chục triệu đồng Việt Nam đưa qua. Lái tàu Song An nói 1 câu kỳ diệu “ Thôi ! tiền nhiều quá, đủ rồi. Ðừng đưa nữa “.Trong đời chúng ta hiếm khi nào nghe được những lời nói đó.

Với tâm tình như vậy, tàu kéo Song An từ giã Trường Xuân. Tiếng còi tạm biệt trên trùng khơi nghe những nghẹn ngào.

Có vài hành khách bỏ Trường Xuân nhẩy theo Song An trở về Saigon. Trên 3,600 khách Trường Xuân ngó theo Song An nhỏ dần trên đường trở lại quê hương. Khóe miệng chợt thấy vị mặn. Ðây là nước biển sóng đánh bên thành tàu hay là nước mắt biệt ly.

Rồi con tàu Trường Xuân chạy 1 mình. Gần 4,000 hành khách. Không đủ nước, không có thức ăn. Máy móc trục trặc. Nước tràn vào khoang tàu. Sắt vụn vô tri dưới hầm tầu. Con người tuyệt vọng ở trên boong.

Hai người tự tử được thủy táng. Việt cộng phá hoại chỗ này. Máy tàu hư hỏng chỗ kia.

Con tàu vô định có thể sẽ là quan tài nổi. Một hỏa diệm sơn chưa nổ. Các tin tức bi quan được lệnh của thuyền trưởng phải dấu kín. Trường Xuân nín thở, ỳ ạch tiếp tục chạy. Chợt có tiếng kêu : “Có người rớt xuống biển.”

Ông thuyền trưởng Nam Ðịnh đứng im trên đài chỉ huy lặng người bất động. Nửa giờ trôi qua như 1 thế kỷ. Captain Phạm ngọc Lũy sau cùng ra lệnh quay tàu lại vớt người. Một quyết định vô vọng. Hành khách nói. Một quyết định sai lầm. Hành khách nói. Hy sinh 4,000 người để cứu 1 người là nhầm lẫn. Hành khách nói. Captain điên rồi.

Tại sao ? Thuyền trưởng sau này trả lời. Tìm vớt 1 người để cứu 4,000 người.

Như vậy có thể hiểu rằng con tàu Trường Xuân đang là một hỏa diệm sơn sẵn sàng phun lửa nổi loạn. Hành động bình tĩnh quay tầu lại tìm 1 người là bài học nhân đạo cho mọi người và giữ cho được sự bình an của toàn thể con tàu.

Có thể Thượng Ðế trên cao đã nhìn thấy chuyện vớt người giửa biển của Trường Xuân nên đã đem lại vị cứu tinh số hai. Ðó là con tàu Ðan Mạch. Tiếng Trường Xuân kêu cứu vọng trên đại dương. Tàu Ðan Mạch trên đường viễn du hỏi rằng thế đã kêu hạm đội Mỹ chưa? Trả lời : “Có số đâu mà kêu.” Ðan Mạch thở dài. “Thôi chờ đó, chúng tôi sẽ đến tiếp tế và rước chừng 1,500 đàn bà trẻ con.”

Ra đời giữa trời biển mênh mông

Trước đó vài giờ đồng hồ, sáng ngày 2/5/75, bà dược sĩ họ Bùi đau đẻ. Gần 4,000 con người phải chừa ra 1 chỗ trống cho sản phụ. Ðứa bé gái ra đời khoảng 2 giờ sáng. Con bé gốc Saigon Việt Nam, nằm trong bụng mẹ trên Trường Xuân, được kéo đi bởi Song An. Sanh ra giữa biển Ðông, Thái bình dương. Không sữa, không nước, không cơm, không cháo. Một người dúi vào tay sản phụ miếng cam thảo.

Bà nhai ra rồi lấy nước miếng bôi vào miệng con gái. Tiếng khóc chào đời vang trên biển rộng mênh mông. Một thanh niên nhấc bổng đứa bé đưa qua tàu Ðan Mạch. Bà mẹ nhìn theo bóng con vươn lên trời xanh, nước mắt một lần nữa lại như vị mặn của biển khơi.

Khai sanh của cháu đề ngày 2/5/1975 trên tàu Ðan Mạch, tên cháu là Chiêu Anh.

Trường Xuân: Ôi, Trường Xuân !

Như vậy là tổng cộng ba ngàn sáu trăm hai mươi tám người đến bến tự do, bây giờ định cư ở bốn phương trời. Một thế hệ Trường Xuân ra đời và nối tiếp.

Thoạt tiên tất cả được đưa về tạm trú ở Hồng Kông. Nhà chức trách Hương Cảng hứa hẹn sẽ không trả về Việt Nam.

Trước khi rời con tàu, thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy đi thanh sát một vòng. Hình ảnh cảm động sau cùng là một người đàn ông mệt mỏi cúi xuống cõng bà mẹ già tê liệt. Trên khoang tàu mênh mông hiện chỉ còn là bãi rác. Một người đàn ông ạch đụi cõng mẹ qua tàu Ðan Mạch, quả thực là hình ảnh hết sức ngậm ngùi. Ðó là ông thiếu tá nhẩy dù Phan Huy Hoàng, sau này đưa mẹ về định cư tại Texas.

Khi vị thuyền trưởng rời tàu Trường Xuân thì nước đã tràn vào khoang máy. Vẫn còn dưới hầm, thân xác 1 ông già sẽ thủy táng theo con tàu.

Nhưng sau này được biết, khi người lên hết tàu Ðan Mạch, Trường Xuân ngập nước nhưng không chìm. Hai tháng sau được kéo về Hồng Kông, đi theo hành khách của nó.

Con rể của ông già nằm trên Trường Xuân đã nhận xác cha. Di hài vị dân biểu gốc Nùng của Việt Nam Cộng Hòa: Ðại tá Wong A Sáng của sư đoàn 5 bộ binh, một thời đồn trú tại Sông Mao. Con người và con tàu, cả hai đều làm xong nhiệm vụ cuối cùng cho hai chữ tự do.

Một thế hệ tương lai

Bà dược sĩ trẻ tuổi họ Bùi bây giờ định cư tại Montreal, Canada và học lại nghề cũ từ 1977. Pharmacie BUI tại Gia nã Ðại có từ ngày đó.



Ðứa bé gái Chiêu Anh ra đời giữa Thái Bình Dương tháng 5-75, hai mươi tư năm sau vẽ 1 bức tranh họa cảnh tàu Trường Xuân nộp cho trường đại học Parkson school of Design, New York. Cô được nhận vào học và tốt nghiệp danh dự với huy chương vàng về ngành sáng tạo y phục thời trang. Hiện Chiêu Anh còn độc thân và làm việc tại San Francisco Hoa Kỳ. Trong một bản văn tự thuật bằng Anh ngữ, Chiêu Anh kể chuyện mình như sau.

“Con là Trường Xuân Baby. Từ biển cả, con là một thuyền nhân sống sót. Khi Sài Gòn thất thủ, cha mẹ chạy xuống tầu Trường Xuân của thuyền trưởng Phạm Ngọc Lũy. Trong cái đêm dài sâu thẳm, vào lúc 2 giờ sáng 2 tháng 5-75 con sanh ra đời. Ðó là giây phút của hãi hùng và hy vọng. Ðời con khởi sự vất vả. Mắt hài nhi không mở. Xương quai bị gẫy, vai bị cụp. Mẹ đói không có sữa cho con. Vị cam thảo ngọt bôi vào miệng sơ sinh vẫn còn ghi nhận cho đến ngày nay. Tầu Danish của thuyền trưởng Ðan Mạch Anton Martin Olsen đã cứu gia đình con và đưa vào nhà thương Anh Quốc tại Hồng Kông. Khai sanh của con với chứng chỉ công dân Denmark trên tầu MS Clara Maersk. Vì những giấy tờ này, tòa đại sứ Ðan Mạch lo cho cả gia đình định cư tại Canada trong 21 ngày. Con đã tiếp tục sống trong những ngày thơ ấu khó khăn vất vả như những gia đình tỵ nạn khác. Cùng với người anh hơn con 2 tuổi, chúng con cố sức học hành để xây dựng tương lai. Con xin được học bổng để theo ngành sáng tạo thời trang và tốt nghiệp 1998 với bằng danh dự tại đại học hàng đầu New York. Con bắt đầu làm việc cho các hãng thời trang nổi tiếng tại Paris, New York và San Francisco. Con đã có dịp đi đến tất cả các đô thị lớn nhỏ từ Âu châu, Á châu, Mỹ châu trong thế giới của ngành sáng tạo thời trang. Nhưng con luôn luôn nhớ rằng mãi mãi vẫn là một thuyền nhân sống sót, một Trường Xuân Baby.”

35 năm nhìn lại

Kể từ tháng 4-75 cho đến tháng 4-2010 chúng ta có 35 năm nhìn lại. Mỗi năm chúng tôi sẽ chọn 1 nhân vật hay 1 sự kiện để giới thiệu.

Trên sân khấu CPA của San Jose tháng 5-2010, người đầu tiên được giới thiệu sẽ là cô Chiêu Anh, Shining Light.

Cô sẽ hiện diện với thân mẫu từ Canada, với bác thuyền trưởng Phạm ngọc Lũy 91 tuổi, với hình ảnh của Trường Xuân, của Song An, và của con tàu Ðan Mạch.
Khởi đầu từ năm 75 trở đi, qua 76, 77 cho đến 2009 và 2010. Lịch sử giở lại từng trang. Bi thảm, hào hùng, tuyệt vọng và hy vọng. Nhưng mở đầu vẫn là chuyến hải hành ngắn ngủi nhưng hết sức đặc thù.

Chuyến đi của Trường Xuân

Trường Xuân, ơi Trường Xuân, Saigon tháng 4 đen
Bốn ngàn người vượt biển, Bỏ đất nước điêu linh. Trên con tàu vô định

Trường Xuân, ơi Trường Xuân. 35 năm nhìn lại
Xem ai còn ai mất, Lệ tuôn khắp dặm trường. Bốn phương trời thế giới

Trường Xuân, ơi Trường Xuân. Gần bốn ngàn người sống.
Với ba mạng tử vong. 2 đứa bé lọt lòng. Giữa mênh mông trời biển

Trường Xuân, ơi Trường Xuân. Một thế kỷ vừa qua...
Tương lai rồi sáng chói. Chuyện này cần kể lại...

Trường Xuân, ơi Trường Xuân, Ngàn năm còn nhớ mãi...
 

Saturday, March 20, 2010

Nhớ về em - Quang Lê

Click Vào Đây - Nhạc phẩm Nhớ về em/Ca sĩ Quang Lê

Giờ Tý Canh Ba - Như Quỳnh, Mạnh Quỳnh

Click Vào Đây - Nhạc phẩm Giờ Tý Canh Ba/Ca sĩ Như Quỳnh, Mạnh Quỳnh

Như Khói Mây Bay - Như Quỳnh

Click Vào Đây - Nhạc phẩm Như Khói Mây Bay/Ca sĩ Như Quỳnh

Nhớ Quê - Trung Hậu

Click Vào Đây - Nhạc phẩm Nhớ Quê/Ca sĩ Trung Hậu

Friday, March 19, 2010

Đổi nhiệt độ F sang C và ngược lại

Lúc bà xả tôi bị bịnh, tôi có setup cách đổi nhiệt độ F sang C trong blog nầy cho ai cần thì dùng. Rồi tôi bỏ nó đi vì bà xả tôi không còn nữa! Nhưng có người yêu cầu tôi đễ lại cách đổi nhiệt độ. Tôi đã setup "Muốn Đổi Nhiệt Độ" trường kỳ, ai cần thì xin nhìn cột bên trái của blog nầy. tth

Thursday, March 18, 2010

Mưa Nữa Đêm - Cẩm Ly

Click Vào Đây - Mưa Nữa Đêm?Ca sĩ Cẩm Ly

Một Mình - Quang Dũng

Click Vào Đây - Nhạc phẩm Một Mình/Ca sĩ Quang Dũng

Một Cỏi Đi Về - Hồng Nhung

Click Vào Đây - Nhạc phẩm Một Cỏi Đi Về/Ca sĩ Hồng Nhung

Một Ngày Không Có Em / Ngày Vui Qua Mau- Đan Nguyên

Click Vào Đây - Nhạc phẩm Một Ngày Không Có Em & Ngày Vui Qua Mau/Ca sĩ Đan Nguyên

Monday, March 15, 2010

Thông đã đi làm và về thăm nhà,

Em,

Thông đã đi Canada làm được một tuần và nó được nghĩ một tuần, nên Thông hiện về nhà.

Anh hết sức mừng vì Thông thích việc nó đang làm, chắc là có sự xui khiến của em trong bóng tối, nên Thông mới chịu bỏ nghề chụp hình để đi làm như vậy.

Chương trình làm việc của Thông hơi khác lạ, anh chưa bao giờ thấy. Nếu Thông làm một tuần thì nó nghĩ một tuần, nếu nó làm hai tuần liên tiếp thì nó nghĩ hai tuần liên tiếp. Nó làm việc luôn cuối tuần, vì các giàn khoan dầu làm 24/24 không nghĩ. Nó làm việc từ 10 tới 12 giờ một ngày.

Thông hiện theo các giàn khoan dầu ở miền Bắc Canada, nhiệt độ nơi nầy thường thường là -20F, nhưng tuần rồi nhiệt độ 30F nên Thông nói không lạnh lắm.

Toán của Thông gồm có 3, 4 kỹ sư, luân phiên mỗi lần ra giàn khoan thì chỉ có một kỹ sư thôi. Khi ở thành phố thì Thông ngũ trong hotel, khi ra giàn khoan thì Thông ngũ trong trại. Thông khoe hảng cho ăn ngon lắm! ăn “beef steak” thường xuyên.

Toán kỹ sư của Thông không cần biết kỹ thuật khoan dầu, nhiệm vụ của kỹ sư là theo dõi các máy móc khoan dầu, chỉ dẫn toán thợ cách xữ dụng máy để họ khỏi làm hư hỏng. Vì một ngày khoan dầu chi phí cả chục triệu US Dollars, họ làm việc 24/24, nếu máy móc hư hỏng, phải ngừng một tuần lễ thì công ty mất 50 triệu US Dollars dễ dàng. Đó là lý do công ty thuê toán kỹ sư “consultant”.

Ngoài ra toán kỹ sư của Thông còn có nhiệm vụ theo dõi cách diều hành của giàn khoan, để bảo đảm mức sản xuất dầu đến tối đa.

Mấy giàn khoan mà Thông đang làm, ở phíc Bắc Canada. Mõ dầu nầy nằm trong cát, họ phải bơm nước thật nóng xuống mõ dầu cho dầu chảy ra, rồi bơm cả dầu lẫn nước nóng lên và tách dầu ra khỏi nước nóng.

Thông nói việc làm rất nhẹ nhàng thoải mái. Điều mà Thông rất vui là, khi đi làm nó mới biết hảng trả thêm lương cho nó 15% vì nó phải làm ở Canada, ngoài ra cuối năm nó còn có bonus lên tới 20%. Với lương căn bản tối thiểu 100K và tối đa 300K, cộng với phụ cấp và bonus, và hảng bao hết mọi chi phí ăn ở di chuyển, anh nói: “Con sẽ làm giàu!”. Thông cười. Anh cám ơn em đã âm thầm giúp nó.

****************
****************

Em, cụ Nguyễn hữu Lung trong chùa Bảo Quang mới mất sáng Thứ Hai vừa qua, cả tuần nay anh mệt đừ vì phải lo tang lễ cho cụ và làm MC cho bốn buổi lễ. Từ ngày em mất, anh muốn tịnh khẩu tịnh tâm sống ẫn dật, nhưng gia đình cụ tha thiết nhờ anh lo, hơn nữa anh có quá nhiều ân tình với cụ Lung về vấn đề chùa nên anh không từ chối được.

Cụ Lung thọ 95 tuổi, mới đây cụ còn gọi điện thoại cho anh, nói chuyện cả giờ về bầu cử trong chùa mà hôm ấy anh không đi. Sáng Chũ Nhật rồi cụ còn tính đi chùa, nhưng cụ hơi mệt, các con đưa cụ vô nhà thương, vài giờ sau đó cụ ra đi nhẹ nhàng. Cụ sống khoẻ mạnh 95 năm, với tuổi nầy và sự ra đi nhẹ nhàng không đau yếu, cụ thật phúc đức phải không em?

Trong đám ma cụ Lung, ai gặp anh cũng nhắc tới em, làm lòng anh quặn thắt. Bà cụ Kiểm 98 tuổi cũng đi đám ma, gặp anh bà nhắc em. Ai cũng thương em hết mà.

Thôi em nhé, còn không đầy hai tuần là anh xuống Houston dự Hội Quan Âm, anh sẽ thăm tro cốt của em. tth

Sunday, March 14, 2010

Tim Vỡ - Như Quỳnh, Đon Hồ

Click Vào Đây - Nhạc phẩm Tim Vỡ/Ca sĩ Như Quỳnh, Đon Hồ

Cỏ Úa - Quang Dũng, Thanh Hà

Click Vào Đây - Nhạc phẩm Cỏ Úa/Ca sị Quang Dũng, Thanh Hà

Saturday, March 13, 2010

Huế Xưa - Như Quỳnh

Click Vào Đây - Nhạc phẩm Huế Xưa/Ca sĩ Như Quỳnh

Về Đây Em - Quang Dũng

Click Vào Đây - Nhạc phẩm Về Đây Em/Ca sĩ Quang Dũng

Trăng Sơn Cước - Ngọc Hạ

Click Vào Đây - Nhạc phẩm Trăng Sơn Cước/Ca sĩ Ngọc Hạ

Kiếp Đơn Nghèo - Hạ Vy

Click Vào Đây - Nhạc phẩm Kiếp Đơn Nghèo/Ca sĩ Hạ Vy

Wednesday, March 10, 2010

Tin mừng sức khoẻ Thầy D Thiều quang Diêu

Chủ Nhật rồi, anh chị bs Nguyễn tam Thanh về San Antonio từ Houston để dự lễ cúng 100 ngày cho mẹ người bạn ở nhà thờ Công Giáo ở San Antonio. Chị Thanh theo phái đoàn về lại Houston, anh Thanh thì ngũ lại nhà tôi một đêm Chủ Nhật để tâm sự với tôi cho có bạn.

Sáng Thứ Hai tôi lái xe đưa anh Thanh về lại Houston và ngũ lại nhà anh Thanh đêm Thứ Hai. Sáng Thứ Ba trước khi về lại San Antonio, tôi gọi Dê Thờ để đến nhà thăm, nhưng Dê Thờ cho biết Triết đang đưa Dê Thờ đi khám bác sĩ để rút ống hút nước vàng ra. Khám bịnh xong Triết sẽ đưa Dê Thờ ra nhà hàng ăn trưa rồi mới về nhà.

Tôi đến nhà hàng để thăm Dê Thờ, chụp vội vài tấm hình rồi tôi phải về San Antonio gấp để lo đám ma cho một cựu Đại Tá Bộ Binh 95 tuổi trong chùa Bảo Quang ngày xưa. Tang gia tha thiết yêu cầu tôi làm MC cho mấy ngày lễ, tôi dạo nầy muốn tịnh khẩu tịnh tâm, nhưng ông Cụ nầy rất thân tình với tôi lúc tôi xây chùa Bảo Quang, nên tôi không từ chối được.

Gặp Dê Thờ tôi hết sức mừng, Dê Thờ đi đứng, trò chuyện rất khoẻ mạnh. Bác sĩ đã lấy ống hút nước vàng ra, vậy là trong người Dê Thờ không còn mang ống gì hết. Thất là diễm phúc cho Dê Thờ và gia đình. Riêng chuồng D 63D có được một tin mừng cho Năm Mới.

Tôi nói chọc cho Dê Thờ cười: "Mầy là con D cưng của chuồng D, mầy bình phục là một niềm vui vô bờ bến cho anh em. Tối nay mầy xây qua ôm bà xả, nếu bà xả xô mầy ra thì mấy nhắc là, "thằng Thái nói bà nói với nó bà cưng tôi lắm, khi tôi về nhà tôi muốn gì bà cũng cho hết mà!"".

Dê Thờ cười. tth



Dê Thờ áo đen đang ăn trưa với Thầy D Triết.

Vợ Chồng Quê - Ngọc Tuyền, Đức Tuấn

Click Vào Đây - Nhạc phẩm Vợ Chồng Quê/Ca sĩ Ngọc Tuyền, Đức Tuấn

Saturday, March 6, 2010

Đi du lịch thiếu em

Em,

Em mất hơn ba tháng rồi, tinh thần anh cứ suy sụp dần, anh tìm cách đi du lịch để nguôi nguây. Anh rũ anh Ánh đi Georgia thăm anh Đức, với hy vọng cười giởn cho thư giản tinh thần.

Anh bay từ San Antonio, anh Ánh bay từ Minnesota, đáp ở phi trường Jackson Ville Florida. Anh chị Đức từ Savannah Georgia lái xe lên Jackson Ville đón anh và anh Ánh.

Lần đầu tiên anh đi du lịch xa không có em. Sáng sớm Thông đưa anh lên phi trường, anh vô tới cổng lên máy bay sớm, ngồi chờ lên máy bay, anh nhớ tới em.

Mùa hè năm rồi hai đứa mình đã mua vé máy bay, dự định đi họp mặt Phi Đoàn 520 ở Miami Forida với anh chị Thẩm. Hai đứa mình đự định chuyến đi nầy sẽ vô vườn trái cây của người ViệtNam ở Miami ăn nhãn, mãng cầu dai, mít….cho đã. Nhưng rồi em bị bịnh nên anh huỷ bỏ chuyến đi.

Hôm nay anh ngồi chờ lên máy bay để đi Forida, anh nhớ tới chuyến đi Florida hụt với em, nước mắt anh cứ ràn rụa! Cô Mỹ trắng trẽ đẹp làm cho Airline len lén nhìn anh lau nước mắt, không biết cô ấy nghĩ gì về anh? Chắc cô ta tưởng anh thất tình! Mà anh thất tình thiệt phải không em? Thương em quá mà.

Từ phi trường Jackson Ville về nhà anh chị Đức mất 2 giờ lái xe. Về đến nhà, chị Đức đải cơm tối cho ăn lẫu đồ biển. Có anh chị Minh PD520 tham dự cơm tối, anh chị Minh ở khá gần nhà anh chị Đức. Ngoài ra trong bửa cơm còn có anh Trạng bà con cô cậu ruột với Đức, nhà anh Trạng sát bên nhà Đức, mỗi nhà có khoảng 2.5 mẫu đất, đây là vùng ngoại ô nên rất thanh tịnh.

**************
**************

Ngày thứ nhì.

Chị Đức cho ăn sáng uống cà phê xong, anh chị Đức đưa anh và Ánh ra phố Savannah. Đầu tiên anh chị Đức cho xem một toà nhà cổ kín cạnh bờ sông thơ mộng, xây bằng gạch đõ, có song sắt to lớn ở cửa chánh và tất cả cửa sổ, đây là toà nhà nhốt người da đen nô lệ ngày xưa!

Nhìn toà nhà nầy, anh xót xa liên tưởng tới tiểu bang Missisipi, Georgia, South Carolina….đây là những tiểu bang kỳ thị chủng tộc hàng đầu, người Mỹ chủ đồn điền Miền Nam mà!

Năm 1966 anh học bay bỏ bom ở Florida, anh đá banh chơi với Không Quân Mỹ trong căn cứ. Khi đội banh của Không Mỹ ở Florida sang đá với đội banh Mỹ bên Missisipi, họ chọn vài người VN theo đá giùm họ.

Tối hôm ấy Không Quân Mỹ ở Florida đưa nguyên đội banh vô “bar” ở Missisipi nhậu. Khi bước vô “bar’, chủ “bar” thấy vài người VN, họ chận lại và chỉ ra ngoài cửa nói lớn “out”, họ đuổi người VN ra! vì họ tưởng là người Mễ. Sĩ quan Không Quân Mỹ đến giới thiệu đây là sĩ quan VN, nên chủ “bar” xin lỗi mời vô! Đây là hình ãnh kỳ thị chủng tộc cực kỳ nặng nề ở các tiểu bang Miền Nam lúc bây giờ. Lúc bây giờ ở các tiểu bang Miền Nam, “bar” và nhà hàng của người Mỹ trắng thì Mỹ đen và người Mễ không được vô, trên xe “bus” người Mỹ đen và người Mễ không được ngồi phía trước!

Xem toà nhà nhốt nô lệ da đen xong, anh chị Đức cho xem thành Fort Pulaski trong chiến tranh Nam Bắc của nước Mỹ ngày xưa vào Năm 1862. Thành nầy xây rất kiên cố, có rất nhiều súng cannon để thũ thành, vậy mà trong vòng 30 giờ pháo kích của các tàu đậu từ ngoài biển, Đại Tá chỉ huy thành đầu hàng chính phủ Liên Bang để cứu sinh mạng binh sĩ trong thành.

Xem thành Fort Pulaski xong, anh chị Đức đưa anh và anh Ánh ra phố ăn trưa và ngắm biển.

**************
**************

Ngày thứ ba.

Gần 10 giờ sáng mọi người trong nhà mới thức dậy, chị Đức cho ăn sáng xong, Đức và anh Minh PD520 đưa anh và Ánh đi tìm mua cua sống về nhậu. Vì đang Mùa Đông nên tụi anh quần tìm tới chiều mà không mua được cua.

Đến gần tối thì chổ bán cua gọi anh chị Minh báo có cua mới lên tàu, anh Minh mua một thùng nước đá to lớn đầy cua và mang đến nhà anh chị Đức, vừa đúng lúc chị Đức nấu cà ri bằng thịt ốc khổng lồ (conch) và làm cá hấp xong.

Tụi anh ăn cà ri “conch”, cá hấp cuốn bánh tráng, cua xóc tỏi. Chị Đức nấu cà ri “conch” ngon như nhà hàng ở Bahama mà gia đình mình ăn ngày xưa. Đức làm cua xóc tỏi với bưa, ăn ngon thấu trời. Anh ăn cua nhiều đến nỗi mấy ngày sau thấy cua anh còn sợ.

Đến tối anh với Ánh, Đức đấu láo tới ba giờ sáng mới ngũ.

**************
**************

Ngày thứ tư.

Anh chị Đức lái xe đưa anh và anh Ánh đi Miami Florida, từ nhà anh chị Đúc tới Miami mất 9 giờ lái xe. Đức lái xe, Anh và Ánh ngồi phía sau, Đức để nhạc VN, nghe nhạc VN anh nhớ em mắt anh hoe lệ, anh nhìn sang anh Ánh, Ánh đang nhắm mắt hình như có cùng một tâm sự như anh. Hai Thầy D mới mất vợ, cố đi du lịch để nguôi nguây, nhưng nguôi nguây không dễ dàng như anh tưởng!

Tụi anh ăn cơm tối ở nhà hàng Peru ở Miami, người Peru nấu ăn cũng giống VN, ngon lắm.

Tụi anh ngũ hotel ở Miami, anh chị Đức một phòng một giường, anh và anh Ánh một phòng hai giường.

**************
**************

Ngày thứ năm.

Sáng sớm rời hotel, tụi anh đến thăm anh chị Huỳnh công Đặng PD520. Anh Đặng là người tổ chức hội ngộ PD520 năm rồi mà hai đứa mình đi hụt, anh chị Đặng nhắc tới em, làm lòng anh se thắt.

Anh chị Đặng đưa tụi anh tới ngôi chùa mà anh chị đang trông coi. Chùa chưa có Thầy Trù Trì, nên chị Đặng lo tất cả bên trong, anh Đặng lo bên ngoài. Anh nói đùa: “Chắc là Phi Công ngày xưa gây tội ác nhiều quá nên bây giờ đi đâu cũng nghe Phi Công lo chùa?”. Mọi người cười!

Tụi anh ăn trưa điểm xấm ở nhà hàng với anh Đặng, rồi đi Key West, từ Miami đi Key West khoảng 3 giờ lái xe. Đường đi Key West rất nhỏ, một “lane” đi và một “lane” về, nên không thể qua mặt.

Key West là một đảo nhỏ nằm dưới chót nhất của nước Mỹ về phía Đông, về phía Tây của nước Mỹ thì có mũi ở Brownsville ở Texas. Mũi Brownsville nầy ngày xưa gia đình mình với gia đình anh chị bs Thanh đi tắm biển South Padre Island 7 năm liền, lúc các con còn nhõ.

Đi Key West là phải ngắm mặt trời lặn, tụi anh hên hết sức vì hôm ấy trời nắng tốt, vừa đến Key West thì mặt trời vừa lặn xuống gần mặt biển, trông hết sức đẹp, tụi anh chụp hình lia lịa.

Thành phố Key West rất dễ thương, đây là một cái đảo nhỏ, hình bầu dục, chiều dài khoản 6 miles, chiều ngang khoảng 4 miles. Phố xá sạch sẽ, du khách đi bộ tấp nập trong phố, dù là đang mùa đông, nếu là mùa hè chắc là du khách đông chen chúc.

Anh nhất định tìm hotel sát mặt biển, sau cùng anh thuê được một “suite” của Travel Loge có hai phòng, trông ra biển thơ mộng làm sao! Anh dự định ỡ lại Key West hai đêm, nhưng anh Đức và Ánh đòi về.

Em biết không? Anh cho Thy biết anh đi Key West, Thy nói Key West là chổ Thy và Chinh đi “honey moon”. Thy rất thích Key West. Tiếc quá, phải chi còn em, anh đưa em ra đây mướn hotel “ocean front” một tuần, để tụi mình hưởng tuần trăng mật lại!

**************
**************

Ngày thứ sáu.

Tụi anh rời Key West trỡ lại Miami ghé nhà anh chị Đặng, mời anh chị Đặng đi ăn trưa ở nhà hàng Cuba. Người Cuba nướng gà, nấu cơm nước dừa với tí muối, ăn với đậu đen, khoai mì, ngon và lạ, ai cũng thích. Ăn trưa xong, anh chị Đặng đưa tụi anh đi ngắm biển Miami, biển Miami quá đẹp, nước biển trong xanh.

Ngắm biển Miami xong, trỡ về nhà anh chị Đặng, tụi anh từ giã ra về, anh Đặng nhất định giữ lại không cho về, nên tụi anh ngũ lại nhà anh chị Đặng. Đến tối tụi anh nhờ anh Đặng đưa ra nhà hàng VN ăn phở. Ăn phở, anh uống một chai bia để tiếp anh Đặng.

Trời! Anh đang mệt, uống một chai bia, về đến nhà anh Đặng mắt anh mỡ không ra, anh chạy thẳng vô phòng để nguyên áo quần, anh lăn ra ngũ, trong khi mọi người trò chuyện ở phòng khách. Đến 12 giờ khuya, anh tĩnh rượu, anh đi ra phòng khách thì mọi người đã đi ngũ, anh trở vào phòng thay áo quần và ngũ tiếp.

Sáng hôm sau, anh Đặng nhìn anh kêu trời và nói: "Tôi giữ ông ngũ lại để tụi mình tâm sự, chưa nói lời nào, ông lăn ra ngũ thì chơi với ai!”. Anh cười và đỗ thừa vì tiếp rượu anh Đặng nên mới ra nông nỗi, anh Đặng chịu thua.

**************
**************

Ngày thứ bảy.

Mọi người trong nhà thức dậy sớm, chị Đặng đi mua bánh Cuba để ăn sáng, anh Đặng pha cà phê. Bánh Cuba có nhưn ổi, nhưn dừa… ăn ngon ra phết.

Ăn sáng xong tụi anh cám ơn anh chị Đặng và ra về.

Từ Miami tụi anh chạy thẳng về nhà hàng Tàu ở Savannah Georgia và hẹn anh chị Minh mập ỏ đó để ăn “buffet“.

Ăn “buffet” xong, về nhà anh chị Đức, tắm xong anh lăn ra ngũ, trong khi Đức và Ánh trò chuyện ở phòng khách.

Từ dạo em bị bịnh, em ngũ sớm anh ngũ sớm theo em, nên dạo nầy trời sụp tối là anh buồn ngũ như gà! Nhưng 4, 5 giờ sáng là anh thức, vì dạo em bị bịnh em cũng thức giờ ấy. Anh chưa muốn thay đổi giờ giấc ngũ, vì anh muốn mỗi sáng thức sớm, anh có được yên tịnh để nhớ đến em. Nhưng mỗi sáng như vậy mắt anh hoe lệ, người anh mềm nhũn, tinh thần anh suy sụp. Có lẽ rồi đây anh phải thay đổi giờ giấc ngũ để lấy lại tinh thần vươn lên mà sống, em đâu có muốn thấy anh uỹ mị như vậy phải không em?

**************
**************

Ngày thứ tám.

Ăn sáng xong anh và Đức đánh tennis, Ánh ngồi làm khán giả. Ánh và Đức khen anh đánh tennis hay, anh cũng đồng ý vì từ dạo em mất anh đánh tennis trong “league” của Mỹ nên tiến bộ hơn nhiều.

Đánh tennis xong, tụi anh đến nhà anh chị Minh. Anh chị Minh mời ăn cơm tối, chị Minh nấu canh chua, cá kho, ăn ngon thấu trời.

Ăn cơm ở nhà anh chị Minh xong, tụi anh vội vã về nhà ngũ chuẩn bị cho ngày mai thức sớm ra phi trường về nhà.

**************
**************

Ngày thứ chín.

Ba giờ sáng cả nhà thức dậy, anh chị Đức chuẩn bị đưa anh và Ánh ra phi trường Jacksson Ville Florida. Máy bay anh đáp ở Nashville Tennessee, từ đấy anh đổi máy bay để về San Antonio.

Anh đến Nashville Tennessee sớm, ngồi chờ hai giờ để về San Antonio, rảnh rổi anh viết bài nầy tại phi trường Nashville.

Tối nay Thông cũng về nhà, nó đuợc huấn luyện một tuần tại Houston cho việc làm mới. Thứ Hai tuần tới nó sẽ đi Canada để bắt đầu làm việc.

Tuần tới Thông đi Canada làm việc một tuần, rồi nó được nghĩ một tuần. Sau đó Thông làm hai tuần liên tiếp, rồi được nghĩ hai tuần liên tiếp. Nó rất thích chương trình làm việc như vậy, vì nó có thì giờ chụp hình.

Thôi em nhé, cuối tháng nầy anh sẽ đi Houston dự Hội Quan Âm và thăm tro cốt của em. tth



Key West mặt trời lặn. Click vào hình để xem hình lớn.


Ăn cơm tối đầu tiên ở nhà Đức. Từ trái qua: Trạng, Minh, chị Minh, chị Đức, Đức, Ánh.


Hội nghị bàn tròn bàn Phật sự tại sân sau chùa Phước Huệ Florida. Từ trái qua: chị Đặng, chị Đức, Ánh, Thái, Đặng.

Click Vào Đây - Để xem thêm hình, click vào hình để xem hình lớn.

Bông Mù U - Như Quỳnh

Click Vào Đây - Bông Mù U/Ca sĩ Như Quỳnh

Monday, March 1, 2010

Tin sức khoẻ Thầy D Thiều quang Diêu - March 1, 2010

Tôi đang ở Miami Florida với Thầy D Ánh và vợ chồng Thầy D Nguyễn minh Đức. Tối hôm qua chúng tôi đang ăn tối ỡ nhà hàng, tôi gọi thăm Diêu. Sáng nay tôi thức sớm và hotel có internet nên tôi vội update tin Diêu.

Theo Diêu thì nước vàng vẫn còn rĩ, Diêu phải mang cái bình nhỏ cở trái lựu đạn để hứng nước vàng. Mỗi lần Diêu ho, chổ mỗ ở lồng ngực bị đau, nhưng trong tim thì không đau.

Nói chung, nói chuyện với Diêu tối hôm qua, tôi rất mừng vì qua tiếng nói và cười giởn tôi có cảm tưởng Diêu đã hồi phục 90%. tth