Thiếu nữ Việt Nam

Thiếu nữ Việt Nam
quá dễ thương

Sunday, July 1, 2012

Tấm Thẻ Bài - Trần Đình Ngọc


Thần giao cách cảm. Ngày xưa lúc tôi còn trẻ, tôi không tin thần giao cách cảm, tôi cho đó là mê tín dị đoan. Từ ngày qua Mỹ với mấy chục năm làm việc chùa, tôi chứng kiến tận mắt những cảnh nhân quả nhãn tiền, những cảnh thần giao cách cảm linh thiên kỳ diệu.

Thuyết nhà Phật, con người chết chưa phải là hết. Tôi tin thuyết nhà Phật, con người chết chẳng qua thay bỏ cái võ bên ngoài, phần hồn thì vẫn còn và tuỳ theo nghiệp chướng mà phần hồn được vãng sanh hoặc bị đày đoạ xuống địa ngục hoặc bị chui vào cái võ khác trên trần gian để trả cho hết nghiệp. Trừ khi được vãng sanh, phần hồn còn thì sự liên lạc vẫn còn? Sự liên lạc huyền bí nầy mà người đời gọi là thần giao cách cảm?

Thần giao cách cảm là tri thức ngoài giác quan. Con người có năm giác quan, và thần giao cách cảm được coi như là giác quan thứ sáu hay là nhận thức dị thường. Thần giao cách cảm không chỉ là hiện tượng huyền bí giữa người chết và người sống, mà ngay cả giữa người sống với người sống.

Một sự việc chứng minh cho thần giao cách cảm. Chiều hôm ấy tôi đang ở Túc Trưng Long Khánh chuẩn bị cho tài xế lái xe jeep đưa tôi đi bắn nai ban đêm. Tự nhiên tôi thấy buồn rã rượi, không muốn đi săn chút nào! Tài xế lái xe đưa tôi ra núi cho tôi điều chỉnh súng trước khi đi. Súng săn của tôi là loại súng hảo hạng của Mỹ dùng để bắn lén. Mỹ đem loại súng nầy qua VN có ba cây, vậy mà tôi có được một cây do tôi quen biết với Quân Cụ. Là loại súng hảo hạng, vậy mà khi tôi lên đạn bóp cò, súng không nổ. Tôi lên đạn bóp cò thêm vài lần, và súng vẫn không nổ. Tôi là xạ thủ võ biền đại diện VNCH đi Pháp bắn thi quốc tế Năm 1974, và tôi chưa bao giờ chứng kiến súng bắn không nổ! Có phải đấng linh thiên nào đó dùng thần giao cách cảm bảo tôi đừng đi? Tôi không hiểu, cho tài xế sửa súng và tiếp tục đi. Rồi xe tôi bị mìn, tôi bị thương nặng......!

Một sự việc khác chứng minh cho thần giao cách cảm. Sáng hôm ấy tôi cất cánh chiếc máy bay U6 từ Sàigòn đi làm việc Trắc Giác ở Sóc Trăng. Trong phi đoàn tôi có Thiếu Uý Khương phi công C47 ở Mỹ mới về. Khương người Việt gốc Miên quê ở Sóc Trăng. Khương xin theo tôi về Sóc Trăng thăm mẹ. Tôi làm việc xong, rồi  Khương xin tôi nhào múc trên nhà cho Má Khương xem máy bay vì Má Khương chưa thấy máy bay. Nhào múc là nghề của tôi từ khi tôi bay L19 và A1. Vậy mà hôm ấy tự nhiên tôi nói với Khương: "Tôi mệt quá, tôi chỉ bay quẹo 45 độ sát nóc nhà cho Má anh xem được không?" Khương đồng ý. Tôi quẹo sát nóc nhà cho Má Khương xem máy bay và hai Má con nhìn thấy nhau, một hồi rồi tôi đáp phi trường Sóc Trăng. Khương đón xe lam về thăm mẹ, còn tôi và anh thượng sĩ Phòng 7 ra phố ăn trưa. Chiều hôm ấy tôi cất cánh máy bay từ Sóc Trăng về Sàigòn. Lên trời tôi bảo Khương bay, tôi ngủ. Một lúc sau tôi đang ngủ, Khương đánh thức tôi: "Ông Thầy ơi! Sao máy bay tôi hết điều khiển được nữa rồi?". Tôi cầm cần lái. Tôi giận toát mồ hôi. Đặc công gỡ cần lái! Từ cần lái xuống các bộ phận máy bay có những sợi dây cáp, những sợi dây cáp nầy dính với cần lái bằng con óc to lớn. Thay vì xỏ con óc vô dây cáp từ trên xuống và vặn cứng con tán rồi khoá lại cho nó không sút ra. Đàng nầy đặc công xỏ con óc vô dây cáp từ dưới lên, vặn con tán lỏng lẻo và không khóa. Lên trời máy bay rung làm con tán rớt ra rồi vì xỏ vô ngược nên con óc cũng rớt ra! May mà có đấng linh thiên nào đó dùng thần giao cách cảm bảo tôi đừng nhào múc. Nếu không thì tôi, Khương và anh Thượng Sĩ chết oan. Sau cùng tôi dùng "trim" bay và đáp an toàn ở Sàigòn.

Thêm hai truyện có thật chứng minh cho thần giao cách cảm. Tôi đọc truyện "Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân - Click vào đây để xem Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân", rồi thêm truyện "Tấm Thẻ Bài" hôm nay. Chỉ cần hai sự việc nầy thôi đủ chứng minh cho tôi thấy thần giao cách cảm là hiện thực. Cám ơn anh HQK12 Trần Văn Ba đã gởi cho tôi truyện "Tấm Thẻ Bài". tth

Sau đây là truyện Tấm Thẻ Bài:

Tấm Thẻ Bài

Tác Giả: Bút Xuân Trần Đình Ngọc

(Thân hữu kể lại cho biết đây là chuyện có thực nhưng người trong chuyện muốn ẩn danh nên phải đổi tên.)


Chị Buôn đứng ngồi không yên. Lòng chị bồn chồn như lửa đốt đến nỗi chị không thiết ăn uống gì mà cũng chẳng muốn nấu cơm cho các con chị ăn. Sự sống còn của gia đình chị bấp bênh quá vì mới thoáng nghĩ đến ngày mai, chị đã rùng mình, người như muốn lên cơn sốt. Xung quanh chị, ngưòi ta cũng lo lắng như chị và có mấy người như chị Thảo, chị Đàm, cô Bé, mấy tuần nay chẳng hiểu đi đâu mà chị không gặp. Ghé nhà coi thì cửa đóng kín, hỏi người kế cận, họ cũng mù tịt, chẳng biết các gia chủ và con cái đi đâu?
> Trong khi tin đồn mỗi ngày một nhiều và toàn là những tin hãi hùng thì tình trạng cấm trại 100% vẫn duy trì cho những quân nhân có nhiệm vụ bảo vệ hậu cứ Sư đoàn 2 Bộ binh ở Chu Lai. Các Trung đoàn tác chiến đã bung ra khắp vùng lãnh thổ trách nhiệm để ngày đêm quần thảo với địch mà quân số và vũ khí hơn ta 10 lần. Cuộc chiến quả là cam go, khốc liệt. Kể từ ngày mất Ban mê Thuột, rồi di tản Pleiku, Kontum, di tản Huế, Đà Nẵng...miền Trung lên cơn sốt chưa từng có trong lịch sử miền Trung. Cơn sốt dữ dằn cái Tết năm Mậu Thân (1968) cũng là một cơn sốt nhớ đời, nó lấy đi mạng sống hàng chục ngàn người, thiêu rụi tàn phá hàng ngàn nóc gia và công thự, nó để lại một tấm khăn sô vĩ đại cho Huế và miền Trung mà mỗi lần nhớ lại chị Buôn còn rùng mình vì cha và hai người anh chị đã chết trong biến cố đó, chết chôn tập thể cùng với cả trăm người ở một cái hố lớn được đào sẵn, nông cời, ở một vùng hẻo lánh ngoại vi Huế. Hai người anh của chị, một là quân nhân, một là viên chức xã ấp VNCH nhưng còn cha chị chỉ là một ông thợ hồ mà cũng tử thương vì một cán cuốc trước khi đẩy xuống hố ở Khe Đá mài.
> Nhưng so ra, cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân quả chưa thấm tháp gì với kỳ này. Dù trình độ học vấn chưa hết bậc tiểu học nhưng nghe mãi radio và thỉnh thoảng qua lối xóm bàn tán, kháo chuyện thời sự, chị Buôn cũng biết Quân đội Mỹ đã rút đi hết, chỉ còn để lại ít Cố vấn để làm việc với các cấp chỉ huy của Quân lực Việt Nam Cộng hòa mà thôi. Súng đạn tiêu thụ, mất mát không thay thế, các cơ phận rời không tiếp liệu; đại pháo, phi cơ không yểm trợ; trực thăng, xe tăng giới hạn xăng, dù đầu óc kém cỏi, quê mùa như chị Buôn cũng thấy Cộng hòa miền Nam Việt Nam khó sống nổi, đâu cứ phải thức giả mới biết!
> Địch chiếm Sa Huỳnh, điểm địa đầu tỉnh Quảng Ngãi với ý đồ chận đường quân dân ta đào thoát vào miền Nam và cô lập hẳn từ Quảng Ngãi trở ra. Hồi đầu năm 1973, địch đã chiếm thị trấn Sa Huỳnh. Theo tin tức thì từ 28-1-1973 cho đến 16-2-1973, Sư đoàn 2 Bộ binh đã tái chiếm Sa Huỳnh với sự yểm trợ mạnh mẽ của hai tiểu đoàn Pháo binh với sáu Pháo đội tác xạ đồng thời gây cho địch những tổn thất lớn về quân dụng và nhân mạng.


> Ngày 15-2-1973, Quốc lộ 1 được khai thông. Một đoàn xe dân sự nối đuôi nhau cả mấy cây số hân hoan lăn bánh trở vào Nam.


> Nhưng đó là năm xưa, chuyện cũ. Giờ đây, giữa tháng 3-1975, địch lại chiếm Sa Huỳnh và cơ hội tái chiếm Sa Huỳnh mỏng manh như sợi tơ nhện giăng trước cửa nhà chị Buôn. Người Mỹ đã định bỏ Miền Nam Việt Nam cho kẻ thù của họ, đã ngại phải đổ thêm quân dụng, quân nhu vào một cuộc chiến dằng dai với số tử vong của binh sĩ Mỹ đã lên tới con số 58,000 người, đã ngại khi phải đối đầu với xe tăng Nga, đại pháo Trung cộng và tiểu liên Tiệp khắc!


> Trưa ngày 22-3-1975, đang lúc chị Buôn đứng ngồi không yên thì anh Buôn về, dáng điệu hớt hải, mặt mày buồn so. Chị Buôn thấy chồng mừng quá muốn la lên, bốn đứa con anh cũng bu lấy bố.
> “Anh ơi!” chị Buôn rên rỉ, “anh cứ đi biền biệt mà tình hình này nguy hiểm quá lắm rồi. Xóm láng giềng họ đi đâu hết trơn. Anh tính sao đây?”
> Ba đứa nhỏ nhất, thằng Tung, thằng Chưởng và con Bi mới 6, 4 và 3 tuổi đeo cứng lấy anh Buôn làm anh phải gỡ tay chúng ra. Đứa con gái lớn nhất của anh chị mới 10 tuổi, con Lệ, phải can thiệp. Nó là đứa con khôn và ngoan nhất của anh chị Buôn. Nó kéo tay hai đứa em:
> “Bi và Chưởng ra đây với chị. Để ba má bàn chuyện.”
> “Anh đã ăn cơm chưa?” Chị Buôn hỏi chồng.
> “Cơm nước gì đâu. Đến bữa không ăn thì đói mà giá có dọn cơm ra đó cũng không nuốt vô. Tình hình bết bát quá. Miền Trung không khéo mất thôi!”
> “Thôi để em nấu mì gói cho cả nhà ăn. Em và các con cũng chưa ăn uống gì.”
> Nói rồi, chị Buôn đi lấy soong đun nước sôi và mở từng gói mì khô bỏ vào soong, múc ra sáu, bảy tô cho mỗi người một tô. Chị vừa ngồi nhìn chồng và các con ăn vừa đút cho con Bi.
> “Má ăn đi! Má để con đút cho nó, má!”
> Lệ buông đũa mặc dù nó vừa bỏ vào miệng được một gắp mì.
> “Con cứ ăn cho no đi. Để má ăn sau cũng được.”


> Anh Buôn ngồi nhìn vợ con muốn ứa nước mắt. Gia đình anh đang yên vui mặc dù với lương Trung sĩ, anh chị vẫn phải hết sức tiện tặn mới tạm đủ. Đồng bạc Việt Nam Cộng hoà kể từ sau vụ Tết Mậu Thân cứ sụt giá đều đều. Trước kia hai đồng bạc mua được bó rau muống, bây giờ bó rau muống cũng phải bốn, năm đồng. Trước kia hai chục một lít gạo vừa, bây giờ giá gấp đôi. Vật giá tăng như thế nhưng lương lính không tăng hoặc chỉ tăng chút đỉnh. May mà có hàng Quân tiếp vụ để lần hồi qua ngày chứ cứ trông vào đồng lương còm cõi của anh thì tặn tiện lắm cũng chỉ đủ cho hai bữa cơm bình dân mỗi ngày. Dù vậy, anh Buôn vẫn thấy cuộc sống có thoải mái. Khi Sư đoàn có lệnh đi hành quân thì đi, sống chết phó thác mặc trời, còn không thì ở hậu cứ canh gác doanh trại, mỗi ngày về ăn cơm cũng được gặp vợ con một lần.


> Bữa ăn quá buồn tẻ mặc dù mấy đứa nhò đều thích mì gói. Chỉ thiếu mấy lá rau cải xanh tươi cho vào ăn đỡ ngán nhưng cả hai tuần nay, chị Buôn đâu có thiết đi chợ đi búa gì. Ngôi chợ xép ở ngay cạnh trại gia binh, mấy hôm nay chẳng biết có ai mang rau cải đến bán không?


> Anh Buôn ăn xong tô mì. Anh giở gói thuốc lá Quân tiếp vụ ra châm một điếu và đi kiếm ly uống nước trà. Chị Buôn hỏi lại câu hỏi vừa nãy mặc dù chị có linh cảm anh không tìm ra câu trả lời.
> “Bây giờ anh tính sao đây anh?”
> Những vết nhăn trên trán anh có vẻ nhiều hơn:
> “Tui rối ruột quá, má con Bi à! Việt cộng đánh khắp nơi loạn xà ngầu mà thiết giáp, pháo binh và nhất là không quân không còn yểm trợ cho bộ binh như trước. Năm mươi phần trăm cũng chả được. Nghe đồn là xăng máy bay, xe tăng và đạn pháo binh đã cạn, người Mỹ chưa tiếp tế sang. Anh em trong tiểu đoàn xôn xao lắm mặc dù cấp trên vẫn trấn an hằng giờ, hằng ngày. Có mấy thằng bạn tui đã đào ngũ. Cấp chỉ huy cũng có nữa. Tui nghe người ta ùn ùn lên tầu ở Đà nẵng để kéo vào Sàigòn, người chết cả mấy trăm vì rớt sông, rớt biển. Hãi hùng lắm, má con Bi à!”
> “Thôi, em bàn với anh,” chị Buôn giọng xác quyết,”Chết một đống hơn sống một người. Nếu ông Trời đến lúc đổn miền Trung này thì cứ cho vợ chồng con cái mình chết chung một huyệt, chứ đừng để người còn kẻ mất đau lòng lắm. Mà em cũng không ưng ở lại sống với họ. Mình là lính Cộng hoà từ bao nhiêu năm nay, kẻ thù không đội trời chung với họ, làm sao họ để yên mình?”


> Hai vợ chồng anh Buôn vừa bàn tới đó thì nghe tiếng gõ cửa rồi một khuôn mặt nhô vào:
> “Buôn đã về đấy hả, tình hình ra sao?”
> Vợ chồng anh Buôn nhìn ra. Đó là Thượng sĩ Sáu, hạ sĩ quan trông coi trại gia binh, hai vợ chồng thường lui tới chuyện trò thân thiết với vợ chồng anh Buôn. Buôn nhìn thấy Sáu liền chạy ra cửa đón vào trong. Tình thế tuyệt vọng này, bất cứ người bạn thân nào cũng quí dù chỉ để nghe một lời an ủi bởi mọi sự nâng đỡ, trông cậy, hi vọng dường như đã cạn kiệt.
> “Vào đây đã anh Sáu. Ủa có cả chị Sáu nữa. Mời anh chị vào đây một chút đã!”
> Con Lệ và hai ba đứa nhỏ vòng tay chào vợ chồng anh Sáu. Chị Sáu xoa đầu con Bi bảo anh chị Buôn:
> “Vợ chồng anh coi bộ bình tĩnh quá trong khi mọi người quýnh quáng hết lên rồi. Không định chạy vào Nam sao?”
> “Chị Sáu ơi,” chị Buôn ôm lấy vai người bạn gái la lên nho nhỏ,”tụi em có biết phải chạy đi đâu đâu. Anh chị có đường, có nẻo nào làm phước chỉ cho tụi em với!”
> Anh Sáu trấn an:
> “Nghe các cấp nói tầu Hải quân đậu ở ngoài biển nhiều lắm. Ngày mai người ta bắt đầu rước binh sĩ và gia đình lên tầu chạy vào Sàigòn.”


> Buôn nhìn Sáu:
> “Sao tôi không nghe gì hết. Mai vào giờ nào vậy anh Sáu?”
> “Chắc từ sáng sớm. Tin phổ biến hạn chế nên nhiều người không biết. Thôi, tụi tui phải đi vài công chuyện nữa. Chào anh chị. Gặp sau nghe!”
> Vợ chồng anh Sáu ra khỏi, chị Buôn hỏi chồng:
> “Tin tức sốt dẻo vậy mà anh không nghe gì sao?”
> “Không ai nói tui hết. Có lẽ họ sợ người ra bãi biển đông quá rồi không đủ tầu mà lên nên phải thân thiết họ mới nói. Tui bàn với má con Bi ở nhà cụ bị quần áo cho lũ nhỏ, chỉ bỏ vào mấy cái túi vải vừa đeo. Chớ chồng chất nhiều, không đeo nổi. Sáng mai tui ở Đại đội về là ra bãi biển Chu Lai. Người ta sống, mình sống. Người ta chết, mình chết. Đã đến nước này thì sợ cũng không được nữa.”


> Nói xong, anh Buôn ôm hôn bốn đứa con rồi tất tả ra đi. Tiếng súng giao chiến giữa hai bên ở xung quanh căn cứ Chu Lai vẫn nổ đều đều, lúc xa, lúc gần. Trại gia binh mọi khi đông vui, mỗi buổi chiều các bà vợ quân nhân ra giếng múc nước, gặp gỡ chuyện trò trước khi về nhà nấu bữa cơm tối cho chồng con. Tiếng hát tân nhạc, cải lương, hò Huế, tiếng đọc tin đều đều từ các máy thu thanh khắp một khu trại hoà lẫn với tiếng trẻ nhỏ nô đùa sau giờ học ban chiều làm trại gia binh mang một bộ mặt tươi vui, đầm ấm. Nay trái lại, người lớn trẻ con đi đâu cả, chỉ thỉnh thoảng mới thấy một người lướt đi như cái bóng. Không khí có vẻ rờn rợn, ma quái, chết chóc thế nào ấy vì nó thiếu hẳn những ánh đèn ấm áp từ trong các căn nhà lấp ló ra đường, ra sân; thiếu hẳn những làn khói trắng ấm áp nhà nhà đun bếp lùa qua cửa sổ và nhất là nó thiếu hẳn một sự an bình trong tâm hồn những trại viên còn đang ở tại trại nghe ngóng tin tức từng giờ từng phút.


> Chị Buôn kiếm được ba cái túi vải và một cái ba-lô nhà binh. Chị nhét vội mấy cái quần áo của lũ nhỏ vào, không quên mấy tờ giấy khai sanh, căn cước. Vài cái chăn mền to và lồng phồng, vài cái nồi niêu để nấu nướng và đồ lặt vặt, chị bỏ lại hết. Duy có thùng mì gói chị cố mang đi để phòng khi đói có cái lót dạ. Chị chia cho anh Buôn cái ba-lô đeo vai và bồng thằng Chưởng; chị đeo một túi xách và bồng con Bi; con Lệ đeo một túi xách, còn thằng Tung không phải đeo gì. Mở ngăn kéo bàn, chị quơ thêm được chai dầu gió xanh, chị nhét vào túi con Lệ để đề phòng cảm mạo.


> Tiếng súng nổ rải rác suốt đêm, cả tiếng trọng pháo và tiểu liên. Mấy đứa nhỏ và chị Buôn chúi vào một cái giường vì quá sợ không dám nằm riêng như mọi khi. Trẻ con dễ ngủ. Nằm êm êm chúng đi vào giấc ngủ. Con Lệ lớn nhất nằm phía ngoài còn con Bi rúc vào lòng mẹ ngủ say.
> Chị Buôn không ngủ nổi vì trăm mối vương vấn bên lòng. Ba má chị ở miền Nam, cả mấy tháng nay không có thư từ. Ba má anh Buôn ở Nha Trang. Chị cầu mong vào được Sàigòn để chị đi Trà Vinh gặp lại cha mẹ. Hoặc có tệ cũng ra tới Nha Trang, nơi gia đình anh Buôn.


> Chị suy nghĩ vẩn vơ cho đến lúc thiếp đi được một lát rồi giật mình tỉnh dậy vì tiếng nổ rất gần của mấy trái hoả tiễn của địch. Sở dĩ chị phân biệt được trái đại bác của ta câu đi và trái hoả tiễn của địch phóng đến vì anh Buôn đã dạy chị. Buôn bảo vợ tiếng nổ ở trong trại gia binh thì chỉ có địch phóng hoả tiễn, B40 hoặc bích kích pháo vào. Tiếng nổ của đại bác ta câu đi nghe nhỏ, chỉ ục một cái. Nghe riết quen, phân biệt được liền.


> Mấy đứa nhỏ cũng bị đánh thức. Đạn nổ gần quá rung chuyển cả cái nhà mỏng manh trại gia binh. Mấy đứa trẻ ôm chặt lấy mẹ. Chúng quá sợ hãi. Chúng mất tinh thần. Mà chẳng riêng chúng, chị Buôn cũng quá sợ. Chính từ những cánh tay và bàn tay gầy guộc, nhỏ xíu đó mà chị còn cảm thấy vững dạ khi nằm đây. Chị cảm thấy cuộc đời sao quá nhiều đau thương và gai góc. Chị thương những đứa con hơn chính thân chị. Chính bởi thương chúng quá nên nghe hoả tiễn của Cộng sản từ xa phóng vào, chị đã có ý nghĩ kỳ cục. Chị mong có một trái rớt trúng cái giường chị và lũ nhỏ đang nằm. Vậy là xong hết. Khỏi buồn phiền, sợ hãi. Khỏi chạy đi đâu cả. Quả đạn rớt lúc có anh Buôn thì càng tốt vì cả gia đình cùng đi một lượt. “Chết một đống hơn sống một người”, ông bà mình đã nói như thế từ ngàn xưa!


> Nhưng trái hoả tiễn không rớt trúng ngay giường chị Buôn như chị ước muốn mà nó rớt ở khu B, phía ngoài. Sau ba tiếng nổ trời long đất lở, có tiếng hét, tiếng khóc, tiếng trẻ con la và tiếng chân chạy thình thịch từ khu A của chị Buôn sang khu B. Chị đoán có người chết và người bị thương vì đạn phóng vào khu gia binh đông đảo vợ con lính và Hạ sĩ quan như thế này, không thể không có chết, một nhiều một ít thôi!


> Trời đã sáng rõ. Những trái đạn không còn rơi ở khu gia binh của chị Buôn nhưng chúng đã xê dịch xa hơn về phía Bắc. Chị Buôn không dám bỏ con để sang khu B xem nhà ai bị trúng đạn nhưng chị nghe tiếng vợ Hạ sĩ Chuyết nói với mấy người ở ngoài đường:
> “Chết trọn hai gia đình vợ con ông Thượng sĩ Chí và Thượng sĩ Lạch, cả thảy mười hai, mười ba người. Bị thương hai nhà hai bên cũng cả chục. Máu me, thịt xương, tay chân vung vãi trông ghê lắm mà nhà cửa đồ đạc tan tành, nát nghếu hết.”


> Tiếng một người khác:
> “Tình hình này rồi ai chôn ai đây? Hai ông Thượng sĩ đi hành quân, lấy ai đi báo cho các ông ấy về chôn vợ con?”


> Chị Buôn cảm thấy đau lòng cho những người xấu số. Như trước đây đã có xe nhà binh chở hòm tới tẩn liệm rồi đưa đi chôn, dù có chết cũng có chỗ để an giấc ngàn thu. Giờ này đám xương thịt bèo nhèo tan nát lẫn với máu me sẽ còn phải nằm ở đó cho đến bao giờ? Ai là người có can đảm và hi sinh đứng ra chôn cất cho những người xấu số đang lúc dầu sôi lửa bỏng này? Ai cũng phải lo vấn đề di tản cho gia đình người ta trước nhất, sau đó mới đến những việc khác. Giả sử những cái xác đó là bố mẹ, ông bà, anh em, con cháu họ chưa chắc họ đã dám hi sinh thời giờ lo chôn cất. Tất cả chỉ vì họ không muốn bị kẹt lại sống với Cộng sản, không muốn con cái họ sống với Cộng sản. Trong 30 năm với ít nhiều hiểu biết về con người Cộng sản, họ đã quá ghê tởm cái chế độ phi nhân coi con người như những dụng cụ không hơn không kém, trói buộc và đối xử với con người như đàn nông súc chỉ biết có mỗi một điều: sản xuất để mang lại lợi nhuận cho bộ máy cầm quyền và đảng viên Cộng sản. Chị Buôn không biết gì về lý thuyết Cộng sản nhưng kinh nghiệm xương máu với Cộng sản thì chị có thừa: cha, hai người anh ruột của chị đã bị Cộng sản giết Tết Mậu Thân 1968.


> Về hai gia đình mới chết, chị Buôn nghĩ dù có dã man đến mấy thì quân Cộng sản cũng phải chừa trại gia binh ra vì toàn là đàn bà, con nít vô tội. Sao họ nỡ bắn hoả tiễn vào trại gia binh như thế? Họ có còn là con người không hay đã mất hết nhân tính xuống hàng thú vật?
> Khoảng 9 giờ sáng, anh Buôn đẩy cửa bước vào nhà, chị Buôn và mấy đứa nhỏ chưa kịp mừng thì anh đã hối, vừa nói vừa thở:
> “Mấy má con đeo đồ lên vai và theo tôi đi!”
> Chị Buôn nhìn chồng:
> “Giờ đi đâu, hả anh?”
> Anh Buôn gắt:
> “Thì nói đi là cứ đi. Đi theo tôi! Không còn giờ để cà rề cà rà!”


> Chị Buôn và mấy đứa con riu ríu đeo túi lên vai. Một cái ba-lô quan trọng thì chị tròng vào vai cho anh mặc dầu ở vai kia, anh đang đeo khẩu M16 và mấy gắp đạn. Cửa khép hờ, vả lại giờ này cũng chẳng biết sao hơn; vợ chồng anh Buôn và mấy đứa con bương bả ra khỏi nhà.


> Hôm đó là sáng ngày 23-3-1975.
> Anh Buôn dẫn vợ con ra mé lộ, vợ chồng con cái xăm xăm đi ra phía bờ biển. Chợt anh thấy một chiếc xe Lam ba bánh đang chạy ngược chiều về phía anh. Chiếc xe Lam của người quen, anh Năm Quảng Ngãi đang bon bon trên đường. Anh Buôn giơ tay chận xe lại, lúc đó Năm Quảng Ngãi cũng đã nhận ra bạn. Anh ta ép sát lề.
> “Anh chị và các cháu đi đâu đây?”
> “Tụi tui ra bãi biển Chu Lai. Anh Năm cho vợ chồng tui và các cháu ra đó được không?”
> “Anh Buôn tính đón tầu Hải quân vào Sàigòn sao?”
> Vốn bạn thân thường nhậu nhẹt với nhau, Buôn phải nói thật, vả lại nhìn bầu đàn thê tử của Buôn, người ta cũng đoán anh định đi đâu.
> “Tui không giấu gì anh, vợ chồng tui và các cháu tính ra bãi biển xem có tầu Hải quân thì vào Nam với ông bà ngoại các cháu mà không được như vậy thì ra tới Nha Trang có gia đình ông bà nội các cháu cũng được.”
> Năm sốt sắng:
> “Lên xe đi, tôi chở dùm anh chị và các cháu ra bãi biển. Nhưng ở ngoài đó giờ này đông lắm rồi. Sáng đến giờ tôi đã chở cả chục chuyến, lại còn mấy xe khác nữa. Có người ngủ đêm rồi ở bãi biển.”


> Vợ chồng anh Buôn và con cái leo lên, chẳng biết sẽ ra sao, thôi đành phó thác cho định mệnh.


> Khi xe tới nơi, Buôn thấy một rừng người mà ngán ngẩm. Tầu nào chở cho hết đám người này? Ở ngoài xa có mấy chiếc tầu Hải quân mầu xám đang đậu và mấy chiêc ca-nô chạy qua chạy lại nhưng với số người đứng kín một bãi biển mà nếu đếm ra có ít cũng hơn vài chục ngàn, tầu bè đâu mà chở cho hết? Dầu sao anh cũng vẫn hi vọng. Nhất là chị Buôn, sống chết gì chồng, các con chị và chị cũng phải rời nơi này.


> Cuộc sống êm đềm của miền Trung từ năm 1954, sau khi chia đôi đất nước đã làm cho tâm tư chị chỉ nghĩ đến những người lính như chồng chị hằng ngày hằng đêm xả thân để bảo vệ lá cờ vàng ba sọc đỏ tượng trưng cho Dân chủ,Tự Do, tượng trưng cho An bình, No ấm.


> Anh Buôn bồng con Bi, đeo súng đạn và ba-lô. Chị Buôn dắt thằng Chưởng vì bồng nó một lúc đã quá mỏi. Vai chị đeo cái túi xách trong có bi-đông nước và ít gói mì để có cái mà ăn cầm hơi trên tầu. Con Lệ dắt tay thằng Tung, thằng Tung nắm lấy tay ba má nó vì anh Buôn đã dặn cả nhà cẩn thận kẻo lạc, lúc được lên tầu mà còn thiếu một đứa thì coi như phải ở lại hết.


> Một rừng người xơ xác, mặt mày thất thần như gà phải cáo đứng khít vào nhau nhìn ra biển, chỗ mấy chiếc tầu Hải Quân Quân lực VNCH đang đậu. Không có một tiếng cười dù là của trẻ nít mà chỉ nghe những tiếng bàn tán nhỏ nhỏ của người lớn và thỉnh thoảng tiếng khóc của con nít. Trong cuộc đời của chúng, chúng chưa từng thấy một lần như thế này. Xớn xác, lo âu, hỗn độn, đau khổ và mệt mỏi. Một rừng người đông như thế nhưng không có người đứng ra chỉ huy.


> Người ta lội dần dần ra phía biển để hi vọng lên tầu trước. Ai cũng chỉ nghĩ đến gia đình mình và tìm mọi cách bảo bọc cho chu toàn. Có mấy người đàn bà đứng khóc rưng rức vì lạc chồng, lạc con. Không phải chỉ có gia đình quân nhân Sư đoàn 2 Bộ Binh mà còn đủ mọi thành phần xã hội ở nhiều nơi tụ tập về đây vì nghe đồn tầu Hải Quân Việt Nam Cộng hoà sẽ đón hết đưa vào Nam. Người ta bí mật truyền tai nhau ở Sàigòn sắp có Chánh phủ Hoà hợp Hoà giải Dân tộc gồm ba thành phần: Việt Nam Cộng Hoà, Mặt trận giải phóng miền Nam của Việt cộng và thành phần trung lập, không thuộc phe nào. Có một số chính khách và nhà tu hi vọng mình sẽ đứng trong các thành phần đó để tham gia Chánh phủ, để lại ăn trên ngồi trốc, danh tiếng vang lừng.


> Người ta cũng đồn từ Nha Trang đến Quảng Trị sẽ nhường cho Bắc Việt, sẽ theo chế độ Cộng sản. Còn từ Nha Trang trở vào miền Nam sẽ thuộc Chánh phủ ba thành phần. Vì vậy, cách gì cũng phải rời miền Trung cho sớm để bảo đảm một cuộc sống dễ thở dù là bỏ lại hết mọi thứ. Cuộc di cư năm 1954 đã cho nhiều người cái kinh nghiệm ấy. Mất hết cũng được nhưng còn Tự Do, Dân chủ là còn tất cả. Mất Tự Do, Dân chủ là mất hết.


> Người dân Việt đã mất rất nhiều lần rồi lại bắt đầu làm lại nhưng họ nghĩ chẳng thà như thế hơn là ở lại sống với bọn người phi nhân, tàn độc, mất gốc, tay sai Cộng sản Quốc tế.
> Hoà Hợp hoà giải, họ nghĩ vậy - dù có Cộng sản trong đó - vẫn còn khả quan hơn toàn Cộng sản. Kể từ tháng 7-1954, người dân từ vĩ tuyến 17, cầu Hiền Lương trở vào đến mũi Cà Mau và ra tới tận các đảo Phú Quốc, Côn Sơn, Trường Sa, Hoàng Sa đã quá sợ chủ nghĩa Mác Xít, chủ nghĩa sắt máu chỉ đem lại đau khổ, chết chóc, đói rét, nô lệ, lầm than cho người dân.


> Bỗng đám đông ồn ào và náo loạn hẳn lên. Người ta đã nhìn thấy mấy chục người đàn ông bơi ra xa và được ca-nô đón, đưa lên tầu lớn vì tầu lớn sợ mắc cạn không dám vào sát bên trong. Người ta ùn ùn lội ra đồng thời giơ tay vẫy, miệng la oai oái:”Vào thêm tí nữa, tí nữa. Sâu quá chúng tôi không lội ra được.” Hàng trăm, hàng ngàn cái miệng cùng gào, hàng ngàn bàn tay cùng vẫy, hàng chục ngàn đôi mắt cùng hướng ra những chiếc ca-nô đang đón khách. Bây giờ có phép gì phi thân ra tầu lớn để được chở vào Nam thì có lẽ không điều gì trên cõi đời này hạnh phúc hơn!

Anh chị Buôn lúng túng với mấy đứa con, nếu không, hai anh chị thừa sức bơi ra đến ca-nô vì cả hai đều biết bơi, anh Buôn bơi giỏi là khác vì ngày xưa anh theo cha anh buôn bán trên thuyền, đi hết nơi này về nơi kia để kiếm sống, đi sông nước nhiều, anh phải luyện nghề bơi cho giỏi. Đã có lúc anh tính vứt hết súng đạn đi cho rảnh tay để bồng con, từng đứa một, bơi ra ca-nô. Nhưng rồi anh lại ngần ngừ. Khẩu súng này với anh từ lâu nay giống như người bạn chí thiết. Anh ở đâu, súng ở đó; anh đi đâu, súng đi đó. Súng là vị thần bản mệnh vì không có súng, anh không biết xoay xở thế nào khi hữu sự. Súng cũng là người bạn để anh ôm ấp, nâng niu, trìu mến khi vui cũng như khi buồn. Anh nghĩ chỉ khi chết anh mới buông tay súng mà thôi. Và dù nó nặng vì cộng thêm mấy gắp đạn, anh Buôn chịu cực ôm khẩu súng, không nỡ vứt xuống biển.


> Có hai chiếc ca-nô đã vào gần hơn và đón được một số khách ra tầu lớn. Nước lên đến ngang thắt lưng anh Buôn nhưng anh đã cho thằng Chưởng ngồi trên vai, hai chân nó kẹp lấy cổ anh cho chắc. Còn con Bi cũng ngồi trên vai chị Buôn đứng cách anh Buôn mấy bước. Sóng từ ngoài xô vào từng đợt làm người ta giang xa nhau và ngả nghiêng muốn té. Thằng Tung và con Lệ vẫn dắt tay nhau đứng sau bố mẹ, không dám rời nửa bước mặc dù nước đã lên đến cổ thằng Tung và đến ngực con Lệ nơi có tấm thẻ bài của anh Buôn với sợi dây, anh đã tròng vào cổ Lệ từ lúc ngồi trên xe Lam.


> Người ta gọi nhau và gọi những người trên ca-nô ơi ới. Họ không chen lấn tại một chỗ vì ca-nô đi rải rác để bốc những người ra được đến mực nước sâu của ca-nô. Anh Buôn muốn lội ra chỗ sâu hơn cho ca-nô dễ đón như những người đã lên tầu nhưng còn hai đứa con: Lệ và Tung thì sao đây? Anh lấy ra mảnh vải hoa từ chiếc ba-lô đang đeo ở sau lưng mà chị Buôn đã dùng để gói những thứ lặt vặt cho khỏi rơi mất, đem buộc nó vào đầu một cây gậy mà nãy giờ anh dùng để chống đi cho vững. Anh quơ mảnh vải hoa lên trời phất qua phất lại cho người lái ca-nô chú ý. Mảnh vải của anh có công hiệu ngay. Một chiếc ca-nô xề tới làm vợ chồng anh và mấy đứa con mừng húm. Tuy nhiên, người ta đông quá, chiếc ca-nô chưa vào tới chỗ anh thì nó đã đầy người.


> Khi chiếc ca-nô cứu tinh còn cách chỗ anh chị Buôn khoảng vài chục mét thì một tiếng nổ lớn phát ra trong đám đông gần chỗ anh Buôn đứng.

Người ta nhốn nháo cả lên, tiếng người lớn la hoảng, tiếng trẻ con khóc lóc, mọi người chạy dạt cả về phía trong để lộ ra một khoảng trống cho thấy máu loang ra đỏ lòm nước biển, bảy tám người bị miểng lựu đạn cắt trúng người té quị xuống nước trong đó có anh Buôn và đứa con trai trên vai anh.


> Mới đầu người ta đoán rằng có lẽ Việt cộng pháo kích nhưng sau tiếng nổ đó không có nữa. Mấy anh nhà binh thường đi trận mạc thì bảo đó là một quả lựu đạn không biết từ đâu ném hoặc phóng bằng máy tới.


> Chị Buôn thấy chồng và con chết ngay trước mắt nên quá hoảng kinh. Chị lùi lại phía sau theo phản ứng tự nhiên nhưng rồi chị lại bước tới ôm lấy xác chồng và xác con. Chị lúng túng với đứa con ngồi trên vai nên không biết con Lệ đã bị sóng cuốn ra phía ngoài còn thằng Tung mới bị sặc nước thì may mắn được một người đàn ông đứng gần đó đưa vào bờ. May mắn nó vẫn còn sống nhưng kiệt lực nằm đó với đám người đã chết.


> Dăm sáu anh quân nhân xúm lại kéo bố con anh Buôn và những người đã chết vì trái lựu đạn vào bãi cát để nằm đó. Thân nhân bu lại khóc lóc thảm thiết còn đám đông vẫn theo dõi những chiếc ca-nô cứu tinh để may ra có được cơ hội lên tầu.


> Khi chị Buôn trực nhớ đến con Lệ thì chẳng thấy nó đâu cả. Chị hoảng hồn dáo dác kiếm. Chị để anh Buôn, thằng Chưởng và thằng Tung nằm đó, gửi con Bi cho người đàn bà cũng có con chết đang ngồi đó, xong chị trở xuống biển chỗ lúc nãy vợ chồng con cái chị đứng, chị khua chân quơ tay xem xác con Lệ có còn dật dờ ở đó không vì chị tin chắc nó đã chết sau tiếng nổ dữ dội vừa nãy. Có mấy người đứng xung quanh đó cũng tìm giùm cho chị nhưng một người đàn ông đứng gần đó nói:

“Con bé khoảng 9 hay 10 tuổi mặc cái áo xanh, quần đen, cổ có đeo cái thẻ bài của lính là con chị sao? Nó được một người trên ca-nô nhào xuống nước bơi vào vớt nó đưa lên ca-nô ra tầu lớn rồi. Thật là may mắn cho nó!”

Chị Buôn khóc rưng rức, nước mắt đổ ra như suối:

“May mắn gì đâu ông. Cả nhà tôi 6 người, chồng tôi và một đứa con chết, xác còn nằm trên kia, tôi và hai đứa em nó sống dở chết dở, chỉ có mình nó lên tầu, cũng coi như mất tích. Chẳng thà người ta đừng bắt nó đi mà để nó lại cho tôi vì tôi chỉ có nó là lớn.”


> Mấy chiếc ca-nô rước thêm được khoảng vài trăm người nữa đưa ra mấy chiếc tầu lớn rồi người ta kéo những chiếc ca-nô lên và tầu chạy ra khơi.

Đám đông di tản hụt ở bãi biển Chu Lai tản mát dần vì nghe nói bộ đội Cộng sản sắp đến. Nhờ mấy anh em nhà binh quen biết cũng trong trại gia binh giúp đỡ, chị Buôn mua săng ván làm lễ an táng cho chồng và đứa con thân yêu, bạc số rồi ba mẹ con thu nhặt đồ lặt vặt ra khỏi Khu Gia binh trước khi cán bộ Cộng sản đến đuổi nhà. Chị cố quên Lệ đi vì mỗi lần nhớ đến nó, chị lại khóc.


> ***

Lệ được đưa lên tầu Hải quân với chiếc thẻ bài đeo toòng teng nơi ngực. Người ta thấy có khắc tên: Lê văn Buôn Số quân: ..... Họ hỏi Lệ. Lệ nói đó là tên ba nó, ba Buôn của nó, bị lọt lại với má và ba đứa em tại bãi biển Chu Lai. Mới đầu Lệ sụt sùi khóc nhưng có người đàn bà ngồi gần bảo nó khóc không ích gì. Nó cắn răng nghe lời bà này, làm theo những gì người ta chỉ bảo. Tiếng nổ làm cho nó ù tai nhưng cái sợ làm nó quên cả. Kể từ lúc quả lựu đạn nổ, nó gần như mê đi cho đến khi có người vớt nó đưa lên ca-nô rồi lên tầu.


> Người vớt nó lên ca-nô và đưa nó lên tầu, nhận nó là con nuôi là một Thiếu Uý Hải quân mới ra trường. Sau thời gian huấn luyện dài đằng đẵng, tim anh còn đầy ắp tình người dành cho đồng hương và cả nhân loại. Ước mơ của anh là những chuyến hải hành xa, đi đến chân trời góc biển, đi đến những đô thị lớn hoa lệ, nguy nga, ngợp ánh đèn về đêm và nườm nượp xe cộ, người đi bộ trên hè phố ban ngày.


> Anh tên Lê trọng Nghĩa, 28 tuổi, quê quán ở miệt Thủ dầu Một, ra trường với hạng cao trong số hơn 60 sinh viên tốt nghiệp trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang và hiện là một sĩ quan ưu tú của Giang đoàn 240 đóng ở miền Trung. Nghĩa hiện còn độc thân, anh chưa hề nghĩ đến chuyện lấy vợ. Anh nghĩ có thể phải 35 tuổi trở lên anh mới lập gia đình. Vợ con vào, một người Sĩ quan Hải quân nói riêng, một Sĩ quan hàng hải nói chung không thể đi đây đi đó được. Mà làm cái “nghề biển” như thế lại ru rú ở xó nhà thì đi Bộ binh cho xong.


> Chiếc tầu Nghĩa và Lệ về đến bến Bạch đằng Sàigòn vào tuần đầu tháng 4-1975, đang lúc Sàigòn lên cơn sốt y như miền Trung mấy tuần trước. Nghĩa đưa Lệ đến gửi vợ một người bạn trong trại Sĩ quan bến Bạch đằng, lại gửi tiền và nhờ Xuân Hà, tên vợ người bạn, đi mua sắm quần áo và những thứ cần thiết hàng ngày cho Lệ. Xuân Hà nhìn Nghĩa rồi nhìn Lệ và hỏi nhỏ Nghĩa:

“Con bé xin được ở đâu mà xinh quá vậy? Tốn vài tạ gạo nữa là đã ra dáng tiểu thư rồi. Anh lựa hay lắm.”

Nghĩa nghiêm nét mặt bảo Xuân Hà:

“Chị đừng nghĩ vậy. Ba má nó và ba đứa em còn kẹt lại Chu Lai. Chỉ có mình nó được tôi cứu lên tầu. Tôi nhận nó làm con nuôi.”

Xuân Hà tính đùa thêm một câu nhưng thấy mặt Nghĩa lạnh như tiền nên không dám cợt nhả nữa.


> Ngày 28-4-1975, Nghĩa lại mang Lệ lên một chiếc tầu Hải Quân HQ thực lớn để chạy sang Guam. Nghĩa con một, cha mẹ Nghĩa đã lớn tuổi muốn sống và chết ở Thủ dầu Một nên không đi mặc dầu trong thời gian ở Sàigòn, Nghĩa đã cải trang về thăm và mời ông bà đi.


> Sau 5 tháng ở trong trại tạm cư ở Guam, Nghĩa và Lệ được một nhà thờ bảo trợ đi South Carolina. Từ đây, Nghĩa xin Basic Grant của tiểu bang để vào Đại học học Kỹ sư cơ khí. Ngoài giờ học, Nghĩa đi làm part time cho tiệm Sears ở downtown để lấy tiền chi phí ăn ở cho hai cha con. Nghĩa xin cho Lệ vào học ở trường tiểu học địa phương, có xe bus nhà trường đưa đón mỗi ngày và ăn sáng, ăn trưa miễn phí vì hai cha con Nghĩa chưa có lợi tức. Nghĩa chỉ thêm bài vở cho Lệ mỗi buổi tối sau khi cơm xong. Lệ thông minh nên học rất nhanh. Để giúp ba Nghĩa, nó biết đặt nồi cơm điện, luộc rau, luộc trứng, làm những món giản dị rồi chờ ba Nghĩa về ăn cơm.


> Mặc dầu vào ngang thiếu căn bản 4 lớp đầu (học trình Hoa Kỳ), nhưng Lệ đã học xong lớp 5 Việt Nam, Lệ học lại với ba Nghĩa và một cô giáo Mỹ dạy kèm (tutor) tất cả những gì cần thiết chưa được học ở các lớp dưới, nhất là Anh ngữ, vì vậy Lệ tốt nghiệp Trung học lúc mới 17 tuổi với điểm trung bình 4.0, một thành tích vượt mức ngay với học sinh bản xứ.


> Nhiều lúc Lệ nhớ ba má, nhớ các em day dứt nhưng nghe ba Nghĩa khuyên, Lệ phải cố quên. Lệ cũng nghĩ và tự nhủ lòng, có khóc, có nhớ ba má và các em cũng không làm được gì, chỉ cản trở việc học. Đã từng ở trong cảnh nghèo của cha mẹ ở Việt Nam, Lệ biết được đi học thế này là một diễm phúc vì vậy Lệ cố gắng và chăm chỉ hết mức. Ba Nghĩa cũng khuyên Lệ, sau này có thể có bang giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, khi ấy Nghĩa sẽ tìm cách hỏi thăm tìm ra tung tích ba má và các em Lệ. Lệ nghe thế lại tạm yên lòng và hi vọng.


> Mùa Thu năm đó, Lệ vào trường Đại học Y khoa South Carolina. Sau 3 năm, Lệ lấy Cử nhân Sinh Vật học với lời khen của Hội đồng Giám Khảo. Lệ chuyển qua học ngành Nhãn Khoa (Opthalmology). Năm 1990, Lệ đậu bằng Bác sĩ Nhãn Khoa hạng tối Ưu với lời ngợi khen của Ban Giám Khảo. Lệ được mời dạy môn Nhãn Khoa cho Sinh viên cùng trường. Lệ hỏi ý kiến ba Nghĩa, sau đó Lệ xin khất cho đến khi trở về từ Việt Nam.

***


> Tốt nghiệp xong, Lệ bàn với ba Nghĩa, lúc này đã có vợ và một đứa con trai 2 tuổi, ba Nghĩa đồng ý, Lệ đi mua vé máy bay về Việt Nam tìm cha mẹ và các em. Sau hơn 10 năm bế quan toả cảng cả nước sắp chết đói, lúc này (từ 1985) chế độ bắt buộc phải mở cửa cho kinh tế thị trường nên cũng dễ dàng cho Lệ đi lại.


> Lệ và một người bạn thân về đến Chu Lai vào một buổi chiều mùa Hạ năm 1990 sau khi đã lặn lội đi bằng đủ thứ xe từ Sàigòn ra miền Trung. Sau 15 năm, quang cảnh cũ đã thay đổi nhiều. Có những căn nhà mới mọc lên nhưng cũng có nhiều căn trại cũ biến mất. Chỉ có bãi biển, trông vẫn như trước mặc dù có nhiều hàng quán mọc lên bán thức ăn, thức uống cho du khách. Trại Gia binh ngày nào không còn. Lệ muốn được gặp lại những người hàng xóm của ba má Lệ ngày xưa như vợ chồng bác Sáu, vợ chồng chú Đàm, vợ chồng cô Bé...để hỏi thăm về cha mẹ và các em nhưng đi quanh quanh làng xóm, Lệ không kiếm ra một người quen cũ.


> Lệ đeo cái thẻ bài vào cổ như ngày 23-3-1975 ra bãi biển Chu Lai, nhà nào Lệ cũng vào hỏi thăm và cho con cái họ quà bánh Lệ đem từ Hoa Kỳ về, giơ chiếc thẻ bài cho họ coi và hỏi thăm xem có ai biết ba má và các em Lệ không? Nhưng tuyệt nhiên không ai biết. Vốn đã có định kiến, Lệ xin phép chính quyền sở tại, không quên quà cáp cho họ, để mở phòng mạch khám mắt miễn phí cho mọi người. Một Nữ bác sĩ Hoa Kỳ, cô Ruthie O’Brien, bác sĩ gia đình, vốn là bạn thân và cùng ra trường một ngày với Lệ, cùng đi với Lệ về chơi thăm miền Trung Việt Nam, nhân dịp cũng bỏ đồ nghề ra khám bệnh và cho thuốc cùng những lời khuyên hữu ích để phòng ngừa bệnh tật. Các gia đình đến khám mắt và khám tổng quát, nhất là những ông già bà cả đều được hỏi về Trung sĩ Lê văn Buôn, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 1, Sư đoàn 2 Bộ binh vào tháng 3 năm 1975 nhưng không một ai biết. Mỗi buổi chiều khi khám bệnh xong, Lệ và Ruthie thường ra bãi biển Chu Lai ngồi ngắm sóng và ngắm hoàng hôn trên biển, nghe những tiếng rì rào của sóng biển chạy vào bờ rồi lại trườn ra xa. Thấy bạn buồn vì không tìm ra gia đình, Ruthie lựa lời khuyên nhủ và hỏi Lệ có còn muốn đến nơi nào khác để kiếm không? Lệ nghĩ chỉ có hai nơi khác ba má Lệ có thể ở là Nha Trang, quê của ba và Trà Vinh, quê của má. Lệ nói cho Ruthie nghe những nơi Lệ hi vọng nhiều nhất, sau đó Ruthie khuyên Lệ nên đi Nha Trang.


> Nha Trang không hứa hẹn nhiều cho việc tìm kiếm vì Lệ đã đến đây gần một tuần, đi khắp nơi hỏi nhưng không ai biết cựu Trung sĩ Lê văn Buôn và vợ con.

Lệ thất vọng hoàn toàn, thầm nghĩ chỉ còn một nơi nữa là Trà Vinh. Nếu tại Trà Vinh cũng không có tung tích thì coi như gia đình Lệ đã bị tiêu tán trong hoặc sau ngày 23-3-1975. Nghĩ đến đó, Lệ cảm thấy buồn muốn khóc. Ba má và các em đi hết chỉ để lại mình con thôi sao, thế thì con có sống cũng mang mối u hoài đau khổ ấy suốt đời! Thà con ở lại nhà chia sẻ những đau khổ với ba má và các em rồi chết chung một huyệt cũng là xong một kiếp người. Lệ buồn khôn tả và khóc mỗi đêm về nhưng không dám cho Ruthie biết.


> Một buổi sáng, Lệ cùng Ruthie mướn một chiếc xe hơi với tài xế để đi thăm Hòn Chồng, nơi thắng cảnh đẹp có tiếng của Nha Trang. Thật ra Lệ không còn tâm trí đâu ngoạn cảnh vì “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” nhưng để chiều Ruthie, Lệ cho Ruthie đi nơi này nơi kia chụp hình lưu niệm và dọc đường có thể tìm vào các quán ăn ngon, các khách sạn sang trọng mướn phòng ngủ qua đêm. Lẽ ra trong chuyến đi này, Lệ mang theo vị hôn phu là bác sĩ Vĩnh quang Dũng, chuyên khoa bệnh tiêu hoá, tốt nghiệp trước Lệ 3 năm và hai người quen nhau khi cùng làm việc trong một bệnh viện nhưng Dũng phải đi Á căn Đình dự một Đại Hội Y Khoa toàn cầu về bệnh tiêu hóa, đại diện cho Bộ Y Tế Hoa Kỳ.


> Còn vị hôn phu của Ruthie có cha già đang nằm bệnh viện chữa trị bệnh tiểu đường nên anh cũng không thể theo Ruthie đi du lịch Việt Nam được.

Sau khi đã dạo chơi bãi biển hơn hai tiếng đồng hồ, Lệ đề nghị tài xế chở vòng qua con đường phía sau, nơi đây lưa thưa có dăm cái nhà trên bãi cỏ hoang. Phong cảnh quá tiêu sơ và u buồn, không có bóng một đứa trẻ. Lệ và Ruthie bàn với nhau đi xuống cuối con đường rồi trở lại, trở về thành phố Nha Trang.


> Mới đi thêm một khoảng ngắn, đột nhiên chiếc xe bốc khói ở máy. Tài xế vội cho xe ngừng lại và kiểm soát máy thấy máy cạn khô không còn một giọt nước. Anh ta hoảng hồn tắt máy và ngơ ngáo đi tìm xung quanh để kiếm nước châm vào máy. Đó đây, ngoài con lộ đắp bằng đất đỏ thì toàn là gò đống và bụi cây mọc lưa thưa, tít tắp xa mới thấy vài mái tranh hiện trên nền trời xanh lơ. Lệ và Ruthie phải ngồi chờ dưới gốc cây cho bớt nắng trong khi bác tài lội bộ đi tìm nước.


> Chợt Lệ trông thấy một đám người lố nhố trên một cái gò, cách xa Lệ khoảng 400 mét. Lệ chợt nghĩ hay là họ đào huyệt chôn người chết như hồi còn bé Lệ đã thấy ở Chu Lai nhưng sao không nghe tiếng khóc cũng không thấy quan tài.Trí tò mò thúc đẩy Lệ vào đó coi xem sao. Lệ cũng có ý nghĩ giúp đỡ công việc họ đang làm, nếu họ quá nghèo, cần đến một, vài chục đô-la của Lệ.


> Lệ nói cho Ruthie nghe ý nghĩ của mình, bảo Ruthie ngồi đó chờ mình nhưng Ruthie không chịu, đứng lên cùng đi với Lệ. Hai cô gái cứ tưởng gần và ruộng khô, nào ngờ coi vậy nhưng khoảng cách khá xa và có những chỗ nước ngập mắt cá, hai cô phải tháo giầy cầm trên tay để đi.

Khoảng sáu, bảy người vừa đàn ông, đàn bà, thanh niên, thiếu nữ cắm cúi nhìn vào một cái lỗ huyệt đang đào do 4 thanh niên khoẻ mạnh, người cầm xẻng xúc đất đổ vào mê tre, kẻ bê đất đổ lên bờ, để dần dần hiện ra tấm nắp thiên bằng gỗ đen sì một cái quan tài.


> Từ xa lội tới, hai cô gái đã bị những cặp mắt tò mò của đám người trên gò nhìn thấy và theo dõi. Khi hai cô tới gần, tất cả đều ngừng tay nhìn chằm chằm như nhìn một hiện tượng lạ.

Họ quá lạ lùng bởi từ xưa đến nay chưa có người ngoại quốc nào ăn mặc đẹp đẽ thế kia - đám người cho rằng cả hai cô là gái Mỹ, Pháp, Anh, Úc chi đó, lại lội ruộng vào cái gò này để coi cải mả.

Phải, họ đang cải mả. Họ đào cốt người thân chết đã lâu năm, bỏ sang một cái tiểu sành, kiếm chỗ thuận tiên, gần gũi hơn đặt xuống.


> Lệ mở lời khi nhìn một người đàn bà lam lũ, già yếu, mặt mày nhăn nheo:

“Chào các bác, các chú, các anh, các chị. Cháu là người Việt sống tại Hoa Kỳ về thăm quê hương. Các bác, các chú đang cải táng cho thân nhân, phải không ạ?”

Nghe cô con gái nói tiếng Việt, cả đám người thật ngạc nhiên. Sao cô gái trông như Mỹ này, chỉ khác mớ tóc đen, lại là người Việt, nói tiếng Việt thạo quá. Họ bỏ xẻng cuốc đứng vây xung quanh hai cô gái. Người đàn bà lớn tuổi trả lời:

“Phải, người ở dưới huyệt là chồng tôi, chết từ năm 1975.”

Lệ nghe giọng nói người đàn bà có điều ngờ ngợ nhưng chưa dám tin là mình có thể đúng. Nhân tiện, cứ hỏi thăm xem có ai biết được ba mình không? Lệ chìa tấm thẻ bài đeo trong ngực áo ra cho họ coi, nói:

“Tấm thẻ bài này của ba tôi. Tôi không biết gia đình ông còn sống không và nay ở đâu. Ông tên là Trung sĩ Lê văn Buôn.”

Người đàn bà trân trối nhìn Lệ xong ngập ngừng nói:

“Thế này thực không phải. Xin lỗi...Có phải tấm thẻ bài này của lính Việt Nam Cộng hoà và cô là ...Lệ phải không?”

Điều Lệ nghi ngờ đã đúng. Giọng nói người đàn bà và nhìn kỹ từ đầu đến chân, Lệ thấy đúng là má Lệ, không còn sai vào đâu được. Lệ ôm chầm lấy bà khóc rưng rức:

“Má ơi! Con đây, Lệ của má đây. Má còn nhận ra con không?”

Bà Buôn, phải, vì người đàn bà đó chính là vợ goá của Trung sĩ Lê văn Buôn, càng ôm chặt Lệ hơn. Bà rên rỉ:

“Lệ ơi, má đâu có ngờ Trời Phật còn cho gia đình mình ngày hôm nay. Người nằm dưới huyệt kia chính là ba con đó. Quả lựu đạn ngày 23-3 đã giết ba và thằng Chưởng. Còn lại hai đứa đứng kia, thằng Tung, con Bi giờ đã lớn từng đó.”


> Lệ quay ra ôm hôn đứa em gái và thằng em trai. Chúng cũng xúc động nhưng không xúc động bằng má Lệ và Lệ vì khi xẩy ra biến cố tan nát gia đình, chúng còn quá nhỏ.

Bà Buôn hỏi Lệ:

“Con đeo tấm thẻ bài này 15 năm nay để đi tìm ba má và các em phải không?”

“Dạ, đúng thế má. Con đi tìm ba má và các em vì con đâu biết ba đã hi sinh ngày hôm đó.”

Ruthie đứng ngó mấy mẹ con ôm nhau cũng xúc động nhưng trong ánh mắt cô đọc thấy những tia sáng hân hoan vô bờ của bạn và của mẹ của bạn. Chuyến đi hoàn toàn thành công quá sức mong mỏi, cô lẩm bẩm.


> Bốn thanh niên lại tiếp tục đào. Họ cậy tấm nắp thiên. Bộ xương người đen sì lõng bõng nước. Ruthie nhìn thấy sợ quá phải đứng tránh ra xa. Cô đã quen với xác chết trong các bệnh viện nhưng không phải là bộ xương đã rữa mục này. Lần đầu tiên Lệ nhìn thấy bộ xương cải táng nhưng Lệ không sợ mà Lệ muốn đứng thật gần để nhìn cho rõ hình hài của người cha đã sinh ra mình. (dunglac.org)


> Khi má Lệ hỏi Lệ vì sao biết mà vào đây. Lệ thuật lại từ đầu tới cuối, vì sao xe phải ngưng lại, bác tài xế phải đi kiếm nước đổ vào máy xe để đi tiếp v.v...


> Bà Buôn thắp lên mấy cây nhang và hai ngọn nến trong khi mấy người đàn ông đổ rượu trắng ra cái chậu sành và rửa từng khúc xương cho sạch, lấy giấy bản lau khô xong xếp vào một cái tiểu sành mầu đất nung đỏ quạch. Trong số người lo chuyện cải táng, có chú Năm thợ hồ có nhiều kinh nghiệm. Chú vừa làm vừa chỉ dẫn cho mấy anh thanh niên làm. Chú nói:

“Tôi học nghề cải táng từ năm mới 16 tuổi mà năm nay đã 55, coi như 39 năm trong nghề mà tôi chưa thấy một vụ nào lại linh thiêng như Trung sĩ Buôn đây. Nghe cháu Lệ vừa nói thì cháu đã để tâm tìm ba má cháu nhiều năm nhưng không ra tung tích; đến bữa nay hồn thiêng Trung sĩ dun dủi làm cho chiếc xe hơi đang chạy ngon lành bỗng hết nước ở ngay khúc đường này, xe bốc khói xuýt cháy máy và từ đó cháu Lệ mới có cơ hội lặn lội vào cái gò này vì tính tò mò và cũng vì tính thương người, muốn giúp đỡ người nghèo. Vì thế mà Trời Phật không bỏ cháu.”


> Bác tài xế đã lặn lội đi xin được một bình nước đổ vào xe. Thay vì hai thanh niên phải khiêng chiếc tiểu sành, giờ này chiếc tiểu sành được bỏ lên xe, mọi người về nghĩa trang gần nơi cư ngụ của gia đình bà Buôn.


> Nghe Lệ kể sơ lược từ lúc được ba Nghĩa nuôi vớt lên tầu và được học hành ở Hoa Kỳ, hiện đã là một bác sĩ Nhãn khoa Hoa Kỳ, tiền bạc dư dả, tương lai sáng lạn, bà Buôn quá sung sướng lại khóc. Bà chạnh lòng nghĩ đến người chồng bạc phước đã chẳng được sống thêm để nhìn thấy sự thành công của đứa con gái ông yêu quý nhất đời.


> Huyệt mộ cho cái tiểu sành đựng nắm xương của người cha bạc số của bác sĩ Vivian Le đã đào xong, nhỏ và nông nên đào rất nhanh. Lần này nó không nằm trên gò đất chung quanh là sa mạc sỏi đá, cây cỏ hoang vu mà ở trong một nghĩa trang đẹp đẽ bên ngoài thành phố Nha Trang.

Khoảng 4 giờ chiều, mọi việc hoàn tất, bà Buôn, Lệ và hai đứa em của Lệ thắp hương, sụp quỳ, vái lậy, khấn khứa. Lệ cố hết sức giữ cho khỏi quá xúc động nhưng khung ảnh trắng đen của cha Lệ trước mặt lúc nào cũng như đang nhìn Lệ âu yếm làm Lệ tràn nước mắt và cái ngày độc địa 23-3-1975, tại bãi biển Chu Lai, lại hiện rõ mồn một như Lệ đang đứng sát bên cha Lệ, bám vào tay ông cho khỏi sóng đánh ra xa.

Nỗi buồn năm xưa dù chưa quên được nhưng hiện tại vẫn là đáng sống. Mẹ con bà Buôn đành phải khép lại trang sử đẫm máu của gia đình và của xóm giềng, thân thuộc để xây dựng ngày mai tươi sáng hơn.

Lệ đã đưa tiền cho má và em đi chợ mua các thức ăn về làm một bữa cơm đãi đằng chòm xóm và những người thân thuộc, trả công hậu hĩ cho những người cải táng hôm đó. Ai cũng tấm tắc khen sao lại có cái thần giao cách cảm đó để mà đến đúng chỗ, đúng lúc, gặp lại mẹ và em và nhìn được hài cốt của cha. Chuyện thực mà khó tin, xẩy ra như trong một giấc mơ.


> Nhờ có nghề nghiệp cao và lợi tức vững vàng lại công dân Mỹ của Lệ, hơn hai năm sau bà Buôn và Tung, Bi đã đoàn tụ với Lệ ở Hoa Kỳ.

Bà Buôn lập một ban thờ, một bên để tấm ảnh cuối cùng của thằng Chưởng khi nó 3 tuổi, một bên treo tấm thẻ bài, ở giữa ban thờ là bát hương, có bài vị và khung ảnh đen trắng của Trung sĩ Lê văn Buôn, người Chiến sĩ kiêu dũng VNCH đã hi sinh vì Tổ quốc, người chồng, người cha thân yêu vẫn luôn luôn như đang mỉm cười với vợ và các con!

Friday, June 29, 2012

Chiều Đồng Quê - Hạ Vy

Click Vào Đây - Nhạc phẩm Chiều Đồng Quê/Ca sĩ Hạ Vy

Thursday, June 28, 2012

Yêu Em Một Nửa - Vũ Khanh


Click Vào Đây - Nhạc phẩm Yêu Em Một Nửa/Ca sĩ Vũ Khanh

Wednesday, June 27, 2012

Huế Buồn - Như Quỳnh

Click Vào Đây - Nhạc phẩm Huế Buồn/Ca sĩ Như Quỳnh

Sunday, June 24, 2012

Nhịp Cầu Tri Âm - Mỹ Huyền, Tuấn Vũ


Click Vào Đây - Nhạc phẩm Nhịp Cầu Tri Âm/Ca sĩ Mỹ Huyền, Tuấn Vũ

Saturday, June 23, 2012

Khúc Hát Thanh Xuân - Thanh Lan, Ngọc Hạ


Click Vào Đây - Nhạc phẩm Khúc Hát Thanh Xuân/Ca sĩ Thanh Lan, Ngọc Hạ

Thursday, June 21, 2012

Ánh nắng mặt trời giúp phòng ngừa ung thư


Anh bạn HQK12 Trần Văn Ba forward một email cho tôi có kèm theo bài viết nói về ánh nắng mặt trời giúp phòng ngừa ung thư. Tôi kiểm chứng lại và thấy bài nghiên cứu của hai bác sĩ người Việt Nam có lý. Tiếc quá, tôi đọc bài nầy hơi trễ vì bà xả tôi sợ đen nên rất sợ ánh nắng mặt trời và bà xả tôi mất vì ung thư! Tôi xin post bài nầy ra đây với hy vọng sẽ có người không bị trễ như tôi. tth  

Sau đây là bài viết:


MỘT HY VỌNG MỚI CHO NHỮNG NGƯỜI BỊ BỆNH UNG THƯ:
ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ BẰNG SINH TỐ D.
 
 
Chu Tất Tiến.

Trong tuyển tập nghiên cứu về bệnh Ung Thư (Critical Reviews in Oncology Hematology) được ấn hành bởi Elsevier, nhà xuất bản lớn nhất thế giới về khoa học và y khoa, có một chương nói về cách điều trị và phòng ngừa ung thư của hai Giáo Sư Y Khoa người Việt Nam: Bác Sĩ Lương Vinh Quốc Khanh và Bác Sĩ Nguyễn Thị Hoàng Lan.

Bác sĩ Lương Vinh Quốc Khanh là Hội Viên (Fellow) của 6 trường Đại Học về Chuyên Khoa Y Khoa và 1 trường Đại Học Y Khoa Anh Quốc. Ông là Giáo Sư Thỉnh Giảng của Đại Học Y Khoa UCLA, Giáo Sư của trường USC, Keck School of Medicine, Los Angeles.

Bác sĩ Nguyễn Thị Hoàng Lan là Hội Viên của 3 trường Đại Học Chuyên Khoa Y Khoa và là Giáo Sư trường USC, Keck School of Medicine, Los Angeles.

Nhân một cơ hội được đọc chương về Cách Dùng Sinh Tố D để trị Bệnh Ung Thư nói trên, người viết đã làm một cuộc phỏng vấn ngắn ngủi với Giáo Sư Bác Sĩ Lương Vinh Quốc Khanh.

-H: Xin bác sĩ cho biết nguyên nhân nào dẫn tới việc nghiên cứu về Sinh Tố D để trị và ngăn ngừa bệnh ung thư.

-Đ: Tôi đã nghiên cứu về sự liên hệ của sinh tố D và bệnh ung thư từ 20 năm nay. Tôi đã từng hợp tác nghiên cứu với một giáo sư nổi tiếng về Sinh tố D của Mỹ. Lý do dẫn tôi tới việc nghiên cứu này là một khám phá tình cờ. Trong lúc điều trị cho những người Việt Nam bị bệnh ung thư, tôi nhận thấy những bệnh nhân này có một đặc điểm chung là cùng thiếu Sinh tố D. Trước đó, tôi đã chia xẻ điều khám phá này với các vị thầy cũng như đồng nghiệp của tôi nhưng rất ít người đồng ý với ý kiến của tôi, có khi còn cho ý kiến ngược lại. Tôi nhớ khi tôi còn ở Đại Học UCLA và bắt đầu nghiên cứu về sự liên hệ giữa sinh tố D và căn bệnh quái ác này, ông thầy tôi gọi điện thoại cho tôi, chê trách là tôi không hiểu gì về sinh tố D cả. Ông thầy cho rằng người dân ở California không bao giờ thiếu Sinh tố D. Nhưng kêt quả thực tế do tôi khám phá là các người bệnh ung thư ở California đều thiêu sinh tố D. Mãi sau này, ông thầy tôi mới xin lỗi vì không bao giò ông nghĩ là các bệnh nhân ung thư đều thiếu sinh tố D.

-H: Điều đáng mừng là sinh tố D có thể mua tại bất cứ dược phòng nào, phải không?

-Đ: Thật ra không phải cứ là sinh tố D thì có thể mua tự do tại các dược phòng. Có nhiều loại sinh tố D. Loại sinh tố D dùng để chữa bệnh ung thư phải có toa bác sĩ mới mua được. Loại cần toa bác sĩ này tốt gấp 10 lần các loại thông thường. Mấy loại mua ngoài chợ không có giá trị. Bản thân tôi khi chữa trị cho người mắc bệnh ung thư, đều dùng loại cần toa bác sĩ. Yếu tố này, thoạt đầu, cũng không được các đồng nghiệp khác đồng ý. Ngay chính ông thầy tôi cũng phản ứng khi được biết tôi chuyên dùng loại sinh tố D cần toa bác sĩ. Ông Thầy tôi cũng thắc mắc hỏi tại sao tôi chỉ cho toa mua loại này, sao không cho họ xài loại bán ngoài chợ. Các khảo cứu sau này cho thấy chỉ có loại sinh tố D cần toa bác sĩ, vì chỉ có loại ấy mới bám vào tế bào và tác dụng trên tế bào ung thư.

-H: Khi tôi còn đi học, tôi được nghe nói là các yếu tố tiền sinh tố D nằm dưới da, có đúng không?

-Đ: Đúng thế, các yếu tố tiền sinh tố D3 nằm dưới da. Nhờ tia ultra violet của mặt trời, các yếu tố này biến thành 25-sinh tố D3. Các chất 25-sinh tố D3 này vào tới thận biến thành 1,25-sinh tố D3. Chính 1,25-sinh tố D3 này mới có tác dụng trên cơ thể. Chất tiền 24,25-sinh tố D3, nếu không tiếp xúc với ánh sáng mặt trời thì không thể biến thành 1,25-sinh tố D3. Nhưng cũng có trường hợp luôn ở dưới ánh nắng mặt trời nhưng vẫn thiếu sinh tố D3. khỏang 1/3 đến phân nửa dân số sinh sống ở Sub-Sahara Phi Châu và Trung Đông được xem là thiếu sinh tố D. Như những người da đen, họ thường thiếu sinh tố D vì da họ đen quá làm cản tác dụng biến tiền sinh tố D thành sinh tố D3. Mũ che nắng, Sunblock cũng cản tia tử ngoại (UV) nữa. Da của người lớn tuổi cũng cản tia tử ngoại. Tế bào da của người lớn tuổi cũng không phát triển, thì người lớn tuổi cũng sẻ thiếu sinh tố D.

-H: Còn yếu tố nào làm thiếu sinh tố D không?

-Đ: Người Việt Nam thường bị viêm gan, các tế bài gan giảm đi, thi việc thay đổi từ 25-sinh tố D sang 1,25-sinh tố D3 cũng giảm đi. Đau thận cũng làm giảm thiểu sự biến hóa 1,25-sinh tố D3. Một điều cần lưu ý là có nhiều người phơi nắng rất nhiều cũng thắc mắc tại sao tôi thiếu sinh tố D. Phơi nắng nhiều quá, thì lại làm một lớp da ngoài bị cháy đi, biến thành lớp cản không tiếp nhận tia hồng ngọai tuyến (UV) nữa. Do đó việc đem người bệnh ung thư đi phơi nắng cũng gặp môt trở ngại là không biết độ nắng là bao nhiêu thì tốt.

-H: Bác sĩ có thể nói thêm về quan hệ giữa sinh tố D và bệnh ung thư như thế nào được không?

-Đ: Sinh tố D liên quan đến ánh nắng mặt trời. Vùng nào nhiều ánh nắng mặt trời thì ít ung thư. Vì thế những vùng càng xa xích đạo bao nhiêu thì càng thiếu sinh tố D, như vùng cực bắc âu thì thiếu sinh tố D rất nhiều, Người ta thấy có một liên hệ mật thiết giữa sinh tố D và bệnh ung thư, những người thiếu sinh tố D thì có tỷ lệ bị ung thư cao hơn người có nhiều sinh tố D. Như ở Norway, có nhiều county, những county ở cực Bắc thì tỷ lệ ung thư cao hơn vùng county phía nam, nơi mà người ta giầu sinh tố D hơn người cực bắc. Ngoài ra, còn có ảnh hưởng của thời tiết: Mùa đông ít ánh nắng mặt trời, nên số người bị ung thư tăng lên rất nhiều, Mùa hè thì giảm đi. Điều quan trọng là nếu dùng sinh tố D trong việc điều trị thì hy vọng khỏi bệnh càng cao.

-H: Cám ơn bác sĩ. Mong rằng đây là một khám phá mới đem lại nhiều hy vọng cho những người mắc phải cơn bệnh của Thần Chết này.

Wednesday, June 20, 2012

Tuesday, June 19, 2012

Rước Tình Về Với Quê Hương - Ngọc Huyền, Sơn Ca


Click Vào Đây - Nhạc phẩm Rước Tình Về Với Quê Hương/Ca sĩ Ngọc Huyền, Sơn Ca

Monday, June 18, 2012

Ru Tình - Hồng Nhung


Click Vào Đây - Nhạc phẩm Ru Tình/Ca sĩ Hồng Nhung

Friday, June 15, 2012

Lá Đỗ Muôn Chiều - Vũ Khanh


Click Vào Đây - Nhạc phẩm Lá Đỗ Muôn Chiều/Ca sĩ Vũ Khanh

Thursday, June 14, 2012

Hướng Về Hà Nội - Ánh Tuyết


Click Vào Đây - Nhạc phẩm Hướng Về Hà Nội/Ca sĩ Ánh Tuyết

Tuesday, June 12, 2012

Phim Ván Bài Lật Ngửa - Đạo diễn Lê Hoàng Hoa


Tình cờ tôi lục lọi trong internet gặp phim Ván Bài Lật Ngửa. Đây là lần đầu tôi biết phim Ván Bài Lật Ngửa. Phim nầy gây sự chú ý cho tôi ngay từ đầu, vì tài tử chính trong phim là Nguyễn Chánh Tín. Tín là em của KQ Nguyễn Chánh Hồng, bạn cùng Phi Đoàn 114 với tôi ở Pleiku Năm 1964. Năm 1967 Hồng về cùng Phi Đoàn 716 ở Tân Sơn Nhất với tôi cho tới giờ chót.  

Hồng có hai người em trai mà tôi biết là Sữ và Tín. Tôi có dịp gặp Sữ vài lần khi Hồng gởi tôi chở Sữ bay đi Vũng Tàu. Còn Tín thì tôi nghe tên chứ chưa lần nào gặp.  

Tôi dự định xem sơ qua phim Ván Bài Lật Ngửa để biết mặt Nguyễn Chánh Tín rồi thôi. Càng xem phim tôi càng sa lầy say mê. Vì tài diễn xuất và diện mạo bảnh trai của Tín. Hơn nữa cốt truyện phim làm tôi nhớ rất rõ lại từng giai đoạn thời gian. Cái thời Vua Thành Thái, Vua Bảo Đại, Thủ Tướng rồi Tổng Thống Ngô Đình Diệm là cái thời niên thiếu của tôi.

Cháu nội Vua Thành Thái học cùng lớp với tôi, nên tôi có đến nhà nó chơi và gặp Vua Thành Thái vài lần. Vua Thành Thái có biệt thự ở Vũng Tàu. Nhà bạn tôi ở đường Nguyễn Trãi ngay góc đường Nguyễn Biễu. Gia đình nó ở trong một căn phố tầm thường. Nó có xe hơi như xe Jeep nhõ loại có bánh bằng căm và xe không mui. Vua Thành Thái vì chống Pháp bị tù ở Côn Đảo được thả về và bị hư một con mắt. Khi Ông đứng trước nhà, mấy Ông Cyclo đứng ngoài nhà ngó Ông, rồi Ông đi ra lấy gậy đập mấy Ông Cyclo. Vua Thành Thái nỗi tiếng là người văn minh, nói tiếng Pháp, cắt tóc ngắn, lái xe hơi, lái ca nô, làm quen với văn minh Tây Phương. Ông cho Thứ Phi bị cấm cung đi xe hơi với ông nên có câu ca dao nói về Vua Thành Thái: 
         "Kim Long có gái mỹ miều
          Trẫm thương, Trẫm nhớ, Trẫm liều, Trẫm đi"
Vua Thành Thái là vị vua đầu tiên "dân chúng quên cả nhìn mặt vua, lúc này không bị tội phạm tất". Ông chịu chơi như vậy mà còn đập mấy Ông Cyclo. Vậy thì mấy Ông Vua xưa nữa dễ sợ cỡ nào! Mấy Vua, Quan VN ngày xưa khó quá làm con dân VN lú hết. Cũng như cha mẹ VN trong nhà đập con làm con nó khờ. Phải chi Vua, Quan VN ngày xưa biết thương yêu dân cho bình đẳng thì dân đất nước mình tiến bộ cỡ nào! Tiếc quá!

Năm 1955 với sự hỗ trợ của Mỹ, Vua Bảo Đại cử Ông Ngô Đình Diệm làm Thủ Tướng, nhưng chính phủ Pháp chống đối quyết liệt. Pháp dùng các thành phần thân Pháp, Bình Xuyên và các giáo phái Cao Đài, Hoà Hão gây khó khăn cho Ông Diệm. 

Ngày 28 tháng 4 năm 1955, lực lượng Công An Xung Phong của Bình Xuyên bất thần tấn công Tổng Nha Cảnh Sát, Bộ Tổng Tham Mưu ở đường Trần Hưng Đạo, nã súng cối vào Dinh Độc Lập. Ông Diệm ra lệnh cho Đại Tá Dương Văn Minh phản công. 

Lúc bây giờ bộ chỉ huy của Công An Xung Phong của Bình Xuyên đóng trong khuôn viên trường Petrus Ký. Khuôn viên trường Petrus Ký lúc ấy chưa có trường Đại Đọc Khoa Học, chưa có trường Đại Học Sư Phạm, chưa có cư xá Cảnh Sát, nên khuôn viên nầy khá rộng lớn.

Nhà tôi ở đường Trần Bình Trọng khúc ngó qua sân banh trường Petrus Ký và nhà in Caravelle của Pháp trong khuôn viên trường Petrus Ký (Sau đó là Sỡ Học Liệu) nên tôi theo coi trận đánh giửa quân của Ông Diệm và quân Bình Xuyên suốt ngày. Pháp kéo cờ Pháp lên trước nhà in Caravelle nên quân của Ông Diệm không bao vây khúc nầy. Nhờ vậy tôi núp gần nhà in Caravelle để coi trận đánh. Trận đánh chỉ kéo dài từ sáng đến mờ tối thì Bình Xuyên thua. Pháp mỡ cửa sau của nhà in Caravelle cho quân Bình Xuyên vô nhà in, rồi Pháp mỡ cổng trước của nhà in cho quân Bình Xuyên rút lui qua xóm tôi để rút về Cầu Chử Y. Từ khu Chợ Quán lên Cầu Chử Y có hai nhánh, nhánh bên phải là đi về lò heo Chánh Hưng, nhánh bên trái là đi vào đất của Bình Xuyên. Nhánh bên trái nầy, cảnh sát của Ông Diệm bất khả xâm phạm, nên quân ăn cướp bị cảnh sát rượt, chạy về nhánh nầy thì được an toàn.

Một kỹ niệm khó quên của tôi với quân Bình Xuyên. Tôi theo dõi quân Bình Xuyên từ trong nhà in Caravelle. Khi quân Bình Xuyên rút qua xóm tôi, tôi đi theo quan sát. Lúc bây giờ trời đã tối hẳn. Họ đi xuyên qua ngõ hẻm trong xóm tôi song song với đường Trần Bình Trọng hướng về nhà thờ Chợ Quán để về Cầu Chử Y. Tôi đang theo họ trong hẻm dưới ánh sáng mờ ảo của đêm tối, bất chợt tôi thấy một ông nằm trong hẻm rên khe khẽ. Tôi lại gần quan sát thì biết ông lính bị quả lựu đạn làm lủng lỗ chằng chịch ở lưng. Tôi biết ngay ông là lính Bình Xuyên bị bỏ lại. Tuy nhiên tôi vẫn hỏi:

- Ông là lính nào để tôi đưa ông vô nhà thương?
- Tôi là lính Quốc Gia.
- Ông phải nói thật! Tôi đưa ông vô nhà thương Quốc Gia thì ông kẹt lắm!
- Tôi là lính Bình Xuyên! 
- Ông nằm chờ tôi để tôi kêu tụi Tây bên nhà in đưa ông vô nhà thương Grall của Tây.  

Tôi chạy đi kêu Thầy D Hồ Vĩnh Thuỹ. Thuỹ và tôi ở gần nhà. Hai đứa tôi chạy đi kêu giáo sư Cát trong xóm. Ông Cát là giáo sư Anh Văn du học bên Anh về. Ông Cát nói tiếng Anh, Pháp như gió. Ông Cát và hai đứa tôi đứng trước nhà in Caravelle bên nây đường, rồi Ông Cát gọi lớn kêu tụi Tây. Tây mang băng ca qua đưa ông lính Bình Xuyên vô nhà thương Grall. Tôi hết sức mừng cho ông lính Bình Xuyên, vì vô nhà thương Grall ông có cơ hội sống sót rất lớn!

****************

Sau khi dẹp hết các giáo phái và các phe thân Pháp đối lập, ngày 4 tháng 10 năm 1955 Thủ Tướng Ngô Đình Diệm cho trưng cầu dân ý truất phế Quốc Trưởng Bão Đại và đưa Thủ Tướng Ngô Đình Diệm lên làm Quốc Trưởng./. tth

Chú thích: Nguyễn Chánh Tín trong vai Nguyễn Thành Luân tức Đại Tá Phạm Ngọc Thão. 

Sau đây là phim Ván Bài Lật Ngửa. Phim có 8 tập, click vào từng tập mà xem. 

T1  T2  T3  T4  T5  T6  T7  T8

       

Monday, June 11, 2012

Kinh Chiều - Trung Hậu, Đông Quân


Click Vào Đây - Nhạc phẩm Kinh Chiều/Ca sĩ Trung Hậu, Đông Quân

Saturday, June 9, 2012

Thần Giao Cách Cảm? - Chị Bảy



Năm 1975 vừa định cư ở San Antonio, một số Phật Tữ ít oi lập ra Hội Phật Giáo San Antonio để cố níu kéo đạo Phật của cha ông. Tôi cũng tham gia trong số Phật Tữ ít oi đó. Lúc đầu chúng tôi mượn phòng họp của Apartment để lễ Phật. Nhưng phòng họp nầy không được yên tịnh trang nghiêm, nên chúng tôi mướn nhà thờ Tin Lành để lễ Phật.

Nhà thờ Tin Lảnh rất rộng rãi khang trang, chúng tôi thích lắm. Sáng Thứ Bảy chúng tôi thỉnh tượng Phật ra làm lễ. Lễ xong chúng tôi thỉnh tượng Phật vào kho cất, để sáng Chủ Nhật người Mỹ làm lễ Chúa. Nhà thờ có bếp nấu ăn rất rộng sạch sẽ. Sau mỗi lễ chùa chúng tôi đều có ăn cơm chay vui lắm. Nhưng làm lễ Phật trong nhà thờ Tin Lành được vài năm thì chúng tôi bị nhà thờ đuổi vì tội nấu cơm chay trong nhà thờ!

Bị nhà thờ đuổi, tôi đại diện anh em đi tìm mua nhà để sửa thành chùa. Cái buổi ban đầu đầy ngơ ngác ấy, chúng tôi lo đầu tắt mặt tối, vừa đi học ở Đại Học vừa đi làm full time để kiếm tiền nuôi vợ con và giúp gia đình bên nhà. Chúng tôi nghèo xơ xác. Vậy mà chúng tôi cũng gồng, mỗi người bỏ vô vài ngàn cúng chùa. Với số tiền nầy đủ cho tôi mướn luật sư và "down payment" để mua cái nhà sàn cũ kỹ trong khu bình dân. Phần tiền còn lại của cái nhà khoản 20 ngàn USD thì luật sư làm giấy nợ mượn nhà băng và chúng tôi nay lưng ra ký hứa trả góp.

Ngôi nhà sàn tôi mua rộng khoảng 1500 SQF, có hai phòng ngũ nhõ xíu và một phòng khách cũng nhõ xíu, một nhà bếp. Một phòng ngũ tôi cho sửa sang cho Thầy Trù Trì ngũ. Còn phòng ngũ thứ hai tôi cho phá vách sát nhập với phòng khách để làm Chánh Điện. Chánh Điện nầy ngồi được khoảng 15 người, được dành cho các cụ và các bà. Các ông thì chúng tôi che lều xếp ghế cho ngồi ngoài sân phía trước ngó vô làm lễ. Cũng xong!

Được ngôi chùa nghèo xơ xác, vậy mà các cụ vui quá sức. Có Cụ nói: "Ông Thái ơi! Nhìn thấy ngôi Chùa rồi có chết tôi cũng vui!" Câu nói dễ thương làm sao và nung đúc tinh thần hăng say cho chúng tôi. Trong cái buổi ban đầu ấy, các cụ ông, cụ bà, có miệng cũng như câm. Ở nhà thì con cháu nói tiếng Mỹ, ra đường ai cũng nói tiếng Mỹ, chỉ có trong chùa là nói tiếng Việt. Nên các cụ lấy ngôi chùa làm niềm vui, để họp mặt tâm sự đủ thứ chuyện cho đỡ nhớ nhà. Nhìn các bà cụ tôi nhớ Má tôi quá sức. Vì tôi mới bỏ Má tôi ra đi, không bao giờ nghĩ sẽ có cơ hội trở lại! Mà thật! Ba Má tôi mất hết mà lúc ấy tôi chưa dám về! 

Lúc tôi còn nhõ Má tôi thường bảo tôi chèo xuồng đưa Má tôi đi chùa. Ông Cố nội tôi lập ra ngôi chùa Thiên Phước cho cả làng. Phước là tên của Ông Cố tôi. Chùa cách nhà Ông Cố tôi một con sông. Ông Cố chết, Ba tôi là trưởng nam nên Ông Nội giao Ba tôi giữ nhà Ông Cố. Có thể đi chùa bằng đường bộ, nhưng Má tôi thích đi xuồng băng qua sông gần hơn. Nhìn các bà cụ trong chùa ở Mỹ làm tôi liên tưởng đến lúc tôi đi chùa với Má tôi, đây là động lực chính thúc đẩy tôi xả thân làm việc chùa.

Từ cái chùa nghèo xơ xác trong cái nhà sàn, tôi mơ ước một ngôi chùa rộng lớn khang trang. Hoà Thượng Thích Nguyên Hạnh Viện Chủ Chùa ViệtNam Houston khuyến khích tôi mua đất xây chùa. Hoà Thượng nói đúng ý tôi nên tôi hăng hái mua được một mẫu đất trống trong khu trung tâm an ninh yên tịnh. Tôi phải bán ngôi chùa củ để có đủ tiền xây chùa mới. Chùa mới rất khang trang, Chánh Điện có thể ngồi 200 người. Một hội trường phía sau có thể chứa 400 người, đây cũng là phòng ăn có nhà bếp rộng lớn. Chùa có cổng Tam Quan với sáu cột tròn mái ngói cong và bước lên năm cấp theo đúng kiểu Chùa.  

Chùa mới chưa xây xong, tôi lo đi mượn tiền không lời của Phật Tữ để mua những lô đất xung quanh chùa, để trừ hậu hoạ. Vì tôi rất lo sợ người Mỹ ở sát chùa, chùa làm ồn ào, họ thưa gởi thì phiền lắm. Sau cùng tôi mua hết các lô đất ba phía quanh chùa. Phía trước chùa bên kia đường, có gần ba mẫu đất tôi cũng đốc thúc một BS Phật Tữ cho mượn tiền mua luôn. Vi chi chùa có được gần sáu mẫu đất vuông vứt trên dóc cao rất đẹp.
  
Tôi khổ triền miên vì làm việc chùa! Hoà Thượng Thích Tịnh Từ Viện Chủ Tu Viện Kim Sơn bên Cali, có lần về San Antonio. Gặp Hoà Thượng tôi khoe, tôi sắp mua đất xây chùa, Hoà Thượng nói, xây chùa khổ lắm, con làm không nỗi đâu! Tôi nhìn Hoà Thượng thắc mắc trong âm thầm, có gì đâu mà không nỗi, rồi tôi cứ làm. Để rồi tôi khổ triền miên!

Taị sao tôi làm việc chùa mà tôi khổ triền miên cả chục năm? Khi Hoà Thượng Thích Tịnh Từ nói làm chùa khổ lắm, tôi tưởng khổ vì tài chánh, vì sức lực mà tôi không nghĩ đến khổ vì lòng người. Mà còn nữa, tôi có nghe nói xây chùa Ma Quỷ sẽ phá dữ lắm! Chưa hết, còn một chuyện bí mật mà tôi dấu kín lâu nay.

Đây là chuyện bật mí! Ngôi chùa nghèo xơ xác của chúng tôi trong căn nhà sàn ấy, mỗi lần thức ăn và trái cây được dọn lên bàn thờ Phật, chưa đốt nhang cúng Phật thì ôi thôi! chuột tràn ngập trên bàn thờ ăn phá. Bất kể có người đứng kế bên chúng cũng không sợ! Nhà sàn trong khu bình dân mà! Tôi bàn với vài ông lớn tuổi trong chùa về vấn đề chuột. Ai cũng lắc đầu không có ý kiến! Họ hiểu luật Nhân Quả hơn tôi? Tôi lên bàn thờ Phật đốt nhang giải thích việc tôi sẽ làm. Rồi tôi mua thuốc chuột rải xung quanh chùa cho chuột ăn. Sau đó ngôi chùa nghèo xơ xác của chúng tôi không còn một con chuột và bàn thờ Phật tự nhiên được trang nghiêm sạch sẽ. Không một ai thắc mắc tại sao chuột mất hết. Họ không muốn dính vô sự việc đầy nhân quả ấy? Tôi cũng làm thinh không nói gì!

Rồi mới đây tôi xem phim Hàn Quốc "Xuân Hạ Thu Đông....rồi Xuân". Trong phim chú tiểu nhõ xíu, ham vui bắt cá, ếch, rắn, cột đá rồi thả xuống nước cho bơi. Chú tiểu bị Sư Phụ thấy và la rầy, bắt đi gỡ đá để thả chúng. Sau cùng con ếch được thả còn sống, con cá và con rắn bị chết thê thảm. Hai con vật nhõ bé không đáng kể ấy chết đi, vậy mà tạo nên cái nghiệp nhân quả làm te tua cuộc đời chú tiểu. Ngay cả lúc chú tiểu ở tù ra, oan hồn con rắn lộn kiếp theo chú tiểu suốt cuộc đời còn lại.

Nhìn chú tiểu trong phim tôi liên tưởng tới tôi. Oan hồn các con chuột theo phá tôi nên tôi mới khổ vì làm việc chùa? Nếu đúng vậy thì lúc ấy tôi phải làm sao? Để chuột tràn ngập trên bàn thờ Phật, hổn láo ăn trước Phật, làm ô uế chổ thờ Phật mà tôi vui được sao?

Mới hôm qua đây, Hoà Thượng Thích Nguyên Hạnh đã nói trong lễ phát tang cho Bà Cụ Bùi Thị Kiễm 100 tuổi ở San Antonio. Hoà Thượng nói, nếu Hoà Thượng có phải làm chó mèo để cho Mẹ Hoà Thượng được lên Tây Phương Cực Lạc, Hoà Thượng cũng vui. Tôi cũng vậy, nếu tôi bị khổ vì giết mấy con chuột để cho bàn thờ Phật được trang nghiêm sạch sẽ, thì tôi vui vẽ chấp nhận không than oán! Hơn thế nữa, tôi nhờ mấy chục năm làm việc chùa, mà bà xả tôi được Chư Phật tiếp dẫn về Tây Phương Cực Lạc. Điều nầy tôi hết sức mãn nguyện rồi. Riêng thân tôi, tôi không mơ ước gì nữa!

Bà cụ Bùi Thị Kiễm cựu Hội Trưởng Hội Phật Giáo San Antonio. Lúc tôi mua đất xây chùa mới thì sóng gió trong chùa nỗi lên. Hoà Thượng Nguyên Hạnh về họp và đề cử Bà Cụ Kiễm làm Hội Trưởng Hội Phật Giáo, để nhờ cái đức của người lớn tuổi để cho tôi xây chùa cho xong. Cụ nhận lời buổi sáng trong buổi họp. Đến tối thì Cụ gọi tôi xin từ chức và con gái lớn của Cụ gọi hỏi tội tôi:

- Anh làm gì mà người ta gọi xỉa xói mẹ tôi?

- Tôi làm gì đâu! Hoà Thượng yêu cầu Bà Cụ làm Hội Trưởng đề nhờ tuổi tác và đức của Cụ để tôi xây chùa cho xong. Nếu chị không bằng lòng thì không sao. Đây là việc chung mà.

Một lúc sao, không biết chị nói chuyện với ai, chị gọi lại tôi và xin lỗi. Chị cho biết Bà Cụ sẽ làm Hội Trưởng và xin tôi yên tâm!

Bà Cụ Kiễm làm Hội Trưởng Hội Phật Giáo San Antonio cả chục năm. Từ ngày tôi hết làm việc chùa, Cụ cũng xin thôi làm Hội Trưởng. Cụ năm nay đúng 100 tuổi Tây. Lúc bà xả tôi bịnh nặng, Cụ đã trên 90, vậy mà Cụ cũng bắt cháu chở đến thăm vợ tôi. Rồi đám tang vợ tôi Cụ cũng có mặt. Lúc nào Cụ cũng dặn dò tôi đi đâu thì đi, nhưng khi nghe Cụ mất thì tôi phải về lo chung sự cho Cụ.

Vừa rồi tôi đang ở nhà con gái ở San Diego, tôi dự trù chuyến nầy qua ở với con sáu tháng. Mới ở với con hơn một tháng, tự mhiên tôi bồn chồn muốn về. Rồi tôi lấy lý do về khám mắt cho con gái đừng buồn. Tôi về nhà được vài ngày thì chị con gái lớn của Cụ báo tin Cụ mất và yêu cầu tôi lo chung sự cho Cụ.

Có bốn Bà Cụ trong Chùa, không kiêng cữ dù rằng lúc các Cụ còn khoẻ mạnh, các Cụ dặn dò tôi đi đâu thì đi nhưng khi các Cụ mất tôi phải về lo chung sự cho các Cụ. Tôi hứa nhưng lo sợ thất hứa! Vậy mà Chư Phật gia hộ tôi, Cụ nào mất tôi cũng về sát ngày! Dạo nầy tôi đi như chim, vậy mà cả bốn Cụ xong hết rồi! tôi không thất hứa một Cụ nào, và lần nào tôi cũng về trước chỉ có vài ngày. Trời! Cái gì vậy? Thần Giao Cách Cảm? ./. tth 

Cụ Bà Bùi Thị Kiểm 100 tuổi.

Hoà Thượng Thích Nguyên Hạnh trong lễ động quan Cụ Kiểm.

Thầy Thích Trung Nghiêm về cúng Cụ Kiểm.
Tôi mời Thầy ra nhà hàng ăn chay. 



   

Wednesday, June 6, 2012

Ở Đâu Cũng Có Em - Vũ Khanh


Click Vào Đây - Nhạc phẩm Ở Đâu Cũng Có Em/Ca sĩ Vũ Khanh

Tôi đi khám mắt - Chị Bảy


Tôi đi khám mắt với bà BS Hughes. Khi tôi đi mua kiếng đeo mắt, BS đo kiếng nói trong mắt tôi có cataract nhõ, ông khuyên tôi nên cho mỗ cataract trước khi mua kiếng. Tôi đi khám mắt với BS Hughes với ý định cho bà mỗ cataract cho tôi.

Mắt tôi còn tốt tuyệt vời! BS Hughes nhõ màu vô mắt tôi và khám đủ thứ, mất thời gian cả giờ, sau cùng bà nói mắt tôi tốt tuyệt vời. Còn cataract của mắt tôi thì nhõ lắm, 10 năm nữa cũng không ăn thua gì, khỏi mỗ! Bà nói bà sẽ cho toa để tôi mua kiếng mới sẽ thấy tốt hơn nhiều.

Tài nghệ mỗi bác sĩ mỗi khác. Khi tôi đi mua kiếng, BS đo kiếng nói mắt tôi và kiếng củ không thay đổi nhiều, và ông cho là cataract gây trỡ ngại cho mắt tôi. Nhưng BS Hughes thì nói khác.  Chỉ cần giữa hai người, BS đo kiếng và BS Hughes tôi đã thấy sự hiểu biết nghề nghiệp của họ khác biệt một trời một vực. Khổ thiệt! 

Sau cùng kiếng mới mà BS Hughes cho toa, mắt tôi thấy tuyệt vời, đủ chứng minh BS Hughes quá tài ba. Hơn nữa máy móc đo mắt của bà quá tôi tân, khác với nơi khác, làm tôi giật mình. BS nhà giàu có khác!

Tôi vui quá sức vì mắt tôi khỏi bị mỗ. Tôi cầm toa BS Hughes đi mua kiếng, cô bán kiếng trình bày cho tôi xem những loại kiếng tốt nhất. Tôi đang vui nên cái gì cô bán kiếng khen là tôi chơi luôn. Kiếng tôi chọn có đặc tính "transitions", đặc tính nầy tôi chưa thấy bao giờ. Khi tôi đeo kiếng trong nhà để đọc computer thì kiếng trong khe, nhưng khi tôi bước ra ngoài nắng thì kiếng nầy đổi màu xám xanh như kính mát. Điều nầy rất lợi khi tôi chơi tennis. Sau cùng cô bán kiếng tính tiền gần $500.00, tôi giật mình vì mắc gần gắp đôi kiếng củ của tôi. Nhưng cô nói tiệm đang có chương trình khuyến mãi, mua một tặng một, và tôi có quyền chọn hai gọng kiếng kiểu khác nhau, nên tôi chơi luôn. Vậy là tôi có một lúc hai cặp kiếng loại hảo hạng với hai kiểu gọng khác nhau, và hy vọng loại kiếng nầy sẽ giúp tôi có thể nhìn thấu lòng người!

Trước khi cho BS mỗ bất cứ bộ phận quan trọng nào trong cơ thể mình, tôi đề nghị nên lấy ý kiến của ít nhất hai bác sỉ giỏi. Trong trường hợp của tôi, may mà tôi gặp BS Hughes có lương tâm, bà nói ra sự thật và tôi khỏi bị mỗ. Gặp BS khác ham tiền, có dịp là họ đè mắt tôi ra mỗ để lấy tiền thôi! Vừa rồi tôi qua Cali, tôi đang chơi tennis với một anh bạn VN và anh bị điện thoại reo liên miên. Tôi hỏi cái gì vậy, anh nói má anh già gần chết rồi, vậy mà BS nhà thương cứ đòi mỗ. Anh có người anh cũng BS không cho mỗ, vậy mà điện thoại cứ reo để bàn chuyện mỗ. Dễ sợ quá! tth  

Tuesday, June 5, 2012

Phương pháp chữa trị rắn cắn độc đáo - Chị Bảy


Tôi đọc phương pháp chữa trị rắn cắn độc đáo nầy nhiều lần rồi, nhưng hôm nay tôi đọc lại từ email của một Thầy D kiêm nhà tướng số Huỳnh Liên! Nhà tướng số Huỳnh Liên mà tin tưởng thì hậu vận của phương pháp chữa trị nầy phải hưng thịnh lắm. Tự nhiên tôi có ý nghĩ đi làm nghề thầy thuốc rắn.

Muốn làm nghề thầy thuốc rắn chữa trị theo kiểu nầy, tôi phải có một nữ phụ tá ướt át! Điều nầy chắc không khó vì ở VN các cô đang cần việc làm nhiều lắm! Trước khi tôi ra tay bước vô nghề thầy thuốc rắn đi cứu nhân độ thế không lấy tiền, tôi xin post phương pháp nầy ra đây với hy vọng giúp người và tìm "nữ phụ tá thầy thuốc rắn" tương lai!

Chính người viết bài đã bị rắn hổ cắn và dùng phương pháp chữa trị nầy được cứu thoát! Tôi xin post phương pháp nầy ra đây với mọi sự dè dặt. Tôi nghĩ trong con đường cùng, chúng ta dùng phương pháp nầy trong cấp bách rồi đưa bệnh nhân đưa đến nhà thương ngay, chứ đừng chắc ăn ngồi nhà nhịp đùi đọc báo rồi trách thầy thuốc rắn, tội nghiệp tui lắm! tth


Sau đây là phương pháp chữa trị rắn cắn độc đáo

-Người biết phương pháp chữa trị nầy nhờ có thời gian làm việc chung với những người lính Thượng ở tỉnh Bình Long. Những anh lính nầy nói cho biết lý do tại sao người Thượng đi rừng lúc nào cũng có người đàn bà đi theo bên cạnh (để cứu cấp khi lỡ bị rắn cắn).

- Khi rủi ro bị rắn cắn (bất cứ loại rắn nào), nhờ người đàn bà dùng miếng bông gòn quẹt vào cửa mình, (không đựoc dùng khi đàn bà đang có kinh nguyệt), rồi đắp lên chỗ rắn cắn sẽ hết nọc độc ngay tức khắc. (Nếu không có bông gòn thì lấy ngón tay quẹt). Chất nhờn trong cửa mình người đàn bà làm tan biến ngay nọc độc của rắn, hay bất cứ nọc độc nào như rết, bò cạp, ong ong... đót phải.

-Chính bản thân moi, mùa nắng năm 1984, trong lúc làm cỏ mía, bị rắn hổ cắn, thằng con trai tôi chạy đến nhà bà chị dâu cho hay (vì chạy về nhà vợ tôi đường xa gấp đôi): “Bác ơi ba con vừa bị rắn hổ cắn, ba con biểu chạy đến bác, bác biết làm thuốc cứu ba con” (bà chị đâu đã được tôi mách trước đây khi chị cũng bị rắn cắn. Khu ruộng nhà tôi có rất nhiều rắn hổ), bà chị dâu vội lấy miếng bông gòn lớn cỡ ngón tay quẹt và đưa cho con tôi cầm về và đấp ngay vào vết rắn cắn. Nhờ phương pháp chữa trị nầy mà khoảng 5 phút sau tôi tỉnh táo như không có việc gì xảy ra.

Ở địa phương tôi (xã Phước Lưu, Quận Gò Dầu Hạ (Hiếu Thiện), tỉnh Tây Ninh), nhiều người bị rắn hổ cắn nhưng được cứu sống nhờ tôi đã phổ biến cho biết phương pháp nầy.
NÊN PHỔ BIẾN CHO NHIỀU NGƯỜI CÙNG BIẾT ÐỂ TRÁNH CHẾT OAN KHI BỊ RẮN ÐỘC CẮN, TỘI NGHIỆP.  RẤT HAY QUÝ VỊ ƠI,
Chính ở Nam California nầy, vợ tôi cũng đã giúp cho một em bé lối xóm bị ong ong đót sưng hết bàn tay, thoa vào hết ngay tức khắc. Và chị Huế (bạn của vợ tôi) cũng dùng phương pháp nầy trị cho thằng con trai của chị (dược sĩ Tú) bị con nhện đen cắn sưng cả bàn chân, cũng hết ngay tức khắc.
Hay lắm quý vị ơi, xin quý vị đừng coi thường phương pháp chữa trị rắn cắn đặc biệt nay !

    

Monday, June 4, 2012

5 Nỗi Hối Hận Của Người Sắp Qua Đời - Bronnie Ware


Bà Bronnie Ware người Úc là một nhạc sĩ cũng từng là một y tá điều trị người sắp chết. Bài viết của bà mang tựa đề "5 Nỗi Hối Hận Của Người Sắp Qua Đời", cho thấy những điều người ta tiếc nuối khi biết mình sắp chết. Đây là những bệnh nhân biết mình không qua được, không muốn chữa trị mà về nhà chờ ngày ra đi vĩnh viễn.

Cô nói họ trưởng thành rất nhiều khi họ phải đối mặt với cái chết của mình. Khi cô hỏi họ có gì tiếc nuối không, một số câu trả lời cứ trở lại mãi. Sau đâu là 5 câu thường nghe nhất.   

Click Vào Đây - Để xem 5 câu thường nghe về sự tiếc nuối của người sắp qua đời.

Khi Click Vào Đây, một screen sẽ nỗi lên với ba chọn lựa: "Open, Save, Save as" thì Click Open. Có thể một screen mới sẽ nỗi lên với hai chọn lựa: "Allow, Don't allow" thì Click Allow. Sau cùng một screen nỗi lên với ba chọn lựa: "OK, Cancel, Read only' thì Click Read only.
 

Friday, June 1, 2012

Trở về mái nhà kỷ niệm - Chị Bảy



Tôi qua thăm gia đình con gái ở San Diego đã hơn một tháng. Mấy tuần đầu tôi cảm thấy tâm hồn tôi hết sức thư giãn. Rồi mỗi ngày tôi nhìn con gái giặt giũ áo quần cho tôi, thăm hỏi lo cho tôi từng bửa ăn, làm tôi giật mình.

Tôi giật mình vì lúc nào tôi cũng quyết tâm không làm phiền con cháu cho dù tôi có già yếu. Tôi chưa già yếu mà! Con gái tôi bù đầu với hai đứa con nhỏ, lo cho chúng ăn uống, đưa đón chúng đi học mà trường tư của đứa bé trai rất xa nhà. Con gái tôi rất mê vườn hoa kiểng sau nhà, vậy mà mỗi sáng nó phải nhờ tôi tưới vì nó không có thì giờ!

Con gái tôi không có thì giờ để lo cho vườn hoa kiểng mà nó yêu thích! Vậy mà nó phải chia sẻ thì giờ để lo cho tôi. Vô lý quá, tình trạng nầy không thể kéo dài được, tôi tìm cách thối thoát.

Một dịp may cho tôi thối thoát. Tôi đi khám mắt để mua kiếng đeo mắt mới, Bác Sĩ đo mắt cho tôi biết mắt tôi có cataract nhỏ, và ông khuyên tôi nên đi khám Bác Sĩ mỗ cataract trước khi mua kiếng. Được dịp nầy tôi bàn với con gái để tôi thối thoát về lại San Antonio. Tội nghiệp! Con gái bảo tôi mỗ mắt ở San Diego để có nó lo cho tôi. Ý kiến nầy của con gái làm tôi thương nó quá sức nhưng làm tôi thêm giật mình, vì như vậy nó sẽ bận rộn cho tôi gấp bội. Tôi viện lẽ sợ Bác Sĩ và nhà thương ở San Diego nằm ngoài network và bảo hiểm không trả tiền! Thế là tôi về lại San Antonio.

Về San Antonio tôi vô internet và dò hỏi bạn bè để tìm Bác Sĩ mỗ mắt giỏi. Thật ra cataract mắt tôi còn nhỏ chưa cần mỗ vội, tôi còn chơi tennis được mà, nhưng trước sau gì cũng mỗ nên tôi quyết định mỗ cho rồi. Cháu BS Hoàn con của anh chị Phó Đức Hân người bạn ở San Antonio giới thiệu tôi bà BS Jane Hughes giảng sư về mắt của trường Đại Học Y Khoa San Antonio. Vô internet đọc background của bà BS nầy, tôi mê quá sức. Bà được bầu là BS mắt giỏi nhất Mỹ Châu!

Khi tôi gọi văn phòng BS Hughes thì tôi được biết BS Hughes không nhận bảo hiểm Medicare của Chính Phủ. Tôi có hai bảo hiểm Medicare của chính phủ cho người già 65 tuổi trở lên và Humana PPO của hảng USAA tôi về hưu. Medicare là bảo hiểm Primary, nên tôi lo quá và đi tìm BS mắt khác.

Thật ra ở San Antonio có thiếu gì BS mỗ mắt nhận bảo hiểm Medicare, nhưng tìm BS giỏi là vấn đề khác. Tôi gọi BS Thanh bồ tèo tôi ở Houston để cầu cứu tìm BS mắt giỏi khác. Cháu BS Thiên con anh Thanh giới thiệu tôi ông BS người Ấn Độ ở Houston và ông nầy nhận Medicare. Tôi gọi văn phòng BS Ấn Độ để lấy hẹn khám mắt xong. Nhưng tôi than với anh Thanh, tôi vẫn tiếc rẻ bà BS Hughes vì bà giỏi quá sức. Anh Thanh khuyên tôi gọi văn phòng BS Hughes coi giá mỗ cataract bao nhiêu, rồi tính.

Tôi gọi văn phòng BS Hughes và được biết tiền khám mắt lần đầu là $213.00, tiền mỗ cataract là $2,200.00. Tôi phải trả số tiền nầy trước, rồi văn phòng BS sẽ giúp tôi giấy tờ để claim với bảo hiểm Medicare và Humana để lấy tiền lại sau. 

Vấn đề đặt ra là nếu BS Hughes nhận Medicare thì tôi lợi hơn nhiều. Vì khi BS Hughes claim với Medicare, thì chính phủ cho Medicare có quyền writeoff, chẳng hạn như BS Hughes tính trọn gói tiền công mỗ là $2,200.00, Medicare có thể writeoff còn lại $654.75, rồi Medicare trả 80% của $654.75 và Humana bao chót 20% còn lại, như vậy tôi không phải trả gì hết. Đàng nầy tôi phải trả trước $2,200.00 rồi lấy lại $654.75 của Mediare và Humana. Như vậy tôi không được hưởng lợi phần writeoff và tôi phải móc tiền túi ra trả $1545.25.

Chính phủ cho phép Medicare có quyền writeoff gần 80%, mới nghe qua tưởng như vậy quá lợi cho bịnh nhân. Nhưng thật ra chương trình ObamaCare của Tổng Thống Obama quá đáng, bắt chẹt BS giỏi rồi rốt cuộc BS giỏi không thèm tham gia chương trình Medicare. Sau cùng chỉ có người có tiền đi BS giỏi, bịnh nhân nghèo thì đi BS tầm thường! Như vậy người nghèo cũng chưa chắc lợi, vì thà trả ít tiền cho BS giỏi để được hết bịnh còn hơn đi bác sĩ tầm thường để rồi "tiền mất tật mang!". Tôi có bà chị bạn VN gần nhà đi mỗ mắt, gặp bác sĩ gà mờ dùng tia laser sao mà tối về nhà chị không thấy gì hết, chị suýt bị mù! Mặc dù BS đưa chị vô bịnh viện cứu chửa kịp thời, nhưng mắt chị không được 100% bình thường! 

Nghe đâu chính phủ Obama đự định cắt giảm Medicare thêm $500 tỷ USD! Như vậy người già đã khổ lại khổ thêm! Theo BS Thanh thì bây giờ tình trạng BS từ chối nhận Medicare nhiều lắm! Đây là hậu quả của ObamaCare? Khổ thiệt!

Tôi ngồi suy tính về BS Hughes. Nếu tôi xuống Houston để mỗ cataract với BS Ấn Độ và ở nhà anh chị Thanh. Việc mỗ mắt đâu phải đi một lần. Đi khám trước rồi lấy hẹn ngày mỗ. Khi mỗ đâu có mỗ hai con mắt một lần, phải để dành một con mắt để thấy đường đi. Khi con mắt mỗ thứ nhất lành hẳn rồi mới mỗ con mắt thứ hai. Rồi mỗi lần sau khi mỗ, tôi phải lui tới để tái khám. Nói chung tôi phải lui tới Houston ở nhà anh chị Thanh ít nhất cả chục lần! Phiền quá!  

Tôi sợ làm phiền con gái mà tôi lại đi làm phiền bạn bè. Tôi tính toán kiểu gì vậy? Hơn nữa lui tới Houston cả chục lần, mỗi lần 400 miles đi về, vị chi là trên 4 ngàn miles. Tiền xăng cho 4 ngàn miles cũng mấy trăm dollars cộng với tiền ăn nhậu mỗi lần đi, vị chi cũng hơn bạc ngàn.

Sau khi suy tính, tôi quyết định gặp BS Hughes để khám mắt và lập chương trình mỗ cataract ở San Antonio. Ở San Antonio, tôi có anh 9 và em gái út của tôi. Hơn nữa dù cho tốn tiền với BS Hughes mà tôi yên tâm lắm. Cũng như lúc trước tôi mỗ Thyroid, cũng cháu BS Hoàn giới thiệu tôi BS Newsman, cũng giảng sư Đại Học Y Khoa, và ông Newsman mỗ Thyroid cho tôi tuyệt vời. Tôi hy vọng kỳ nầy BS Hughes mỗ cataract cho tôi cũng tuyệt vời như vậy. Tôi tin bà xả tôi sẽ đứng sau lưng âm thầm lo cho tôi mà. Cám ơn em. tth 

Anh chị KQ63D Nguyễn Đức Hiền làm cơm tiển đưa Chị Bảy về lại mái nhà kỷ niệm. Từ trái vô: anh chị KQ63D Lương Ngọc Anh, anh chị Hiền. 



Tuesday, May 29, 2012

Sunday, May 27, 2012

Đêm Bơ Vơ - Ngọc Hạ


Click Vào Đây - Nhạc phẩm Đêm Bơ Vơ/Ca sĩ Ngọc Hạ

Saturday, May 26, 2012

Bí mật lớn nhất của ảo thuật cuối cùng cũng được tiết lộ


Hà Gia Thế là bạn học Sư Phạm Qui Nhơn với bà xả tôi vừa gởi cho tôi email có đính kèm links nói về "Bí mật lớn nhất của ảo thuật cuối cùng cũng được tiết lộ". Bí mật ảo thuật nầy lâu nay đã làm cho bao nhiêu người bứt tóc gãi tai phục quá sức, nhưng hôm nay thì được bật mí. Ai chưa biết thì rất xứng đáng để bỏ thì giờ xem qua cho biết. Có tất cả gần 40 videos, dài quá, tôi chỉ post ra đây năm videos. Ai muốn xem thêm thì email cho tôi biết để tôi forward tất cả cho xem. Cám ơn Thế nhiều lắm. tth   

Click Vào Đây - Để xem bí mật lớn nhất của ảo thuật cuối cùng cũng được tiết lộ Phần 1.1
Click Vào Đây - Để xem bí mật lớn nhất của ảo thuật cuối cùng cũng được tiết lộ Phần 1.2
Click Vào Đây - Để xem bí mật lớn nhất của ảo thuật cuối cùng cũng được tiết lộ Phần 1.3
Click Vào Đây - Để xem bí mật lớn nhất của ảo thuật cuối cùng cũng được tiết lộ Phần 2.1
Click Vào Đây - Để xem bí mật lớn nhất của ảo thuật cuối cùng cũng được tiết lộ Phần 2.3

Thursday, May 24, 2012

Chút Tàn Phai - Quang Dũng


Click Vào Đây - Nhạc phẩm Chút Tàn Phai/Ca sĩ Quang Dũng

Monday, May 21, 2012

Thu Sầu - Ngọc Hạ


Click Vào Đây - Nhạc phẩm Thu Sầu/Ca sĩ Ngọc Hạ

Sunday, May 20, 2012

Kỷ nguyên mới của xe hơi - Chị Bảy


Lâu nay tôi nghe nhiều về sự thông minh của người Do Thái. Hôm nay lại một người Do Thái đang đưa xe hơi đến một kỷ nguyên mới. Một kỷ nguyên làm đảo lộn cả kỷ nghệ xe hơi, và có thể loại bỏ hẳn xe hơi hiện có.

Ông Shai Agassi sanh Năm 1968 tại Ramat-Gan Do Thái. Ông tốt nghiệp kỷ sư Năm 1990. Năm 2010 Tạp Chí Foreign Policy đăng tên ông trong danh sách 100 người có sáng kiến ảnh hưởng đứng đầu toàn cầu. Ông là người sáng lập và là CEO của công ty Better Place tại thành phố Palo Alto California USA.

Công ty Better Place. Ông Shai Agassi giải thích tại sao công ty tên Better Place. Năm 2005 tại buổi hội thảo về kinh tế thế giới tại thành phố Davos Thuỵ Sĩ, ông Klaus Schwab kinh tế gia người Đức hỏi ông: "Có cách nào ông làm cho thế giới tốt hơn vào Năm 2020?" Nguyên văn: "How do you make the world a better place by 2020?". Để gián tiếp trả lời ông Klaus Schwab, Năm 2008 - 2009 ông Shai Agassi tuyên bố công ty Better Place sẽ cho ra xe Auto điện 100 phần trăm. Tháng January 2012 Better Place cho ra xe Auto điện đầu tiên. Lúc đầu xe chỉ được bán cho nhân viên của hảng Better Place. Tháng April 2012 xe được bán ra thị trường.       

Xe Auto điện 100 phần trăm. Tôi dùng chử Auto điện mà không dùng chử Xe Hơi vì xe nầy không dùng hơi đẩy của động cơ nỗ như lâu nay mà dùng toàn điện. Xe nầy khác với xe Hybrid vừa xăng vừa điện như thị trường đang xài.

Xe Auto điện có gì hay? Thật ra xe Auto điện đã có từ 1835, nhưng từ dạo ấy tới bây giờ các hảng chế xe Auto điện gặp trở ngại nan giải là làm sao có được bình điện đủ để chạy đường xa!

Để giải quyết vần đề bình điện. Ông Shai Agassi đưa ra giải pháp:

Tráo đổi bình điện. Công ty Better Place lập ra các trạm tráo đổi bình điện như các trạm bán xăng. Trạm tráo đổi bình điện có dạng như trạm rửa xe tự động bên Mỹ. Tài xế lái xe chui qua trạm tráo đổi bình điện trong vòng năm phút là bình điện yếu được tráo đổi lấy bình điện đầy. Một bình điện đầy chạy được khoảng 100 Miles. Trên xe có đồng hồ báo cho biết bình điện còn chạy được bao nhiêu cây số, y như đồng hồ báo còn bao nhiêu xăng. Khi bình điện yếu thì tài xế tấp xe vô trạm tráo đổi bình điện để đổi lấy bình điện có đầy điện, bình điện yếu thì giao cho trạm để họ sạt điện. Việc tráo đổi bình điện chỉ mất khoảng năm phút, thời gian ngắn hơn đổ đầy bình xăng! Việc tráo đổi bình điện nầy có thể dùng người máy vừa chính xác vừa lẹ.
Click Vào Đây - Để xem trạm tráo đổi bình điện và người máy làm việc.

Ai bảo trì bình điện? Better Place cung cấp bình điện nên giá chi phí cho chiếc xe rẻ đi rất nhiều. Người dùng chỉ trả tiền hàng tháng rất thấp cho bình điện và công sạt điện. Better Place là chủ bình điện lithium-ion loại tốt và xài lâu nhất, và Better Place có nhiệm vụ bảo trì bình điện, để cho bình điện được tốt và xài lâu, không nguy hiểm cho khách hàng.

Oscar. Chử Oscar từ những chử nầy ra "our in-car driver support system", đó hệ thống computer và là người bạn tốt của tài xế. Oscar cho tài xế biết tình trạng của bình điện, và khi nào cần sạt hoặc tráo đổi bình điện. Oscar cũng cho tài xế biết trạm tráo đổi bình điện ở đâu và cách xa bao nhiêu. Oscar như người vợ hiền thục quán xuyến hết mọi việc, và tài xế như đức phu quân chỉ lo lái xe như lèo lái đối phó cho gia đình!

Energy Management. Đây là hệ thống computer mà Better Place điều khiển từ nhà để theo dõi và giúp tài xế. Hệ thống computer theo dõi nầy rất đơn giản để tránh tốn kém cho người dùng. Hệ thống computer nầy Better Place có thể dùng để liên lạc trực tiếp với trạm tráo đổi bình điện để giúp đở khi cần.             

Chổ sạt điện. Better Place sẽ sắp sếp cho chổ cắm điện để sạt bình điện khi ở nhà, hoặc ở đâu đó lâu dài.

Giá tiền chiếc Auto điện. Chiếc Auto điện đầu tiên tại Do Thái được bán với giá $32,000.00 USD.

Nhận xét chung chung về xe Auto điện. Nếu ý nghĩ nầy được thực hiện hoàn hảo, thì ông Shai Agassi sẽ thay đổi quả đất đầy ô nhiễm nầy trở thành nơi có môi trường trong lành hơn, ít ô nhiễm hơn vì không còn khói xe hơi. Các cô các bà không còn phải bịt mặt bịt mũi ở Sàigòn!

Xứ Do Thái đang thiết lập trạm tráo đổi bình điện để làm thí điểm đầu tiên trên thế giới. Nếu mọi việc tiến triển tốt đẹp thì xứ Do Thái không còn lệ thuộc nhiều về dầu lữa. Trời! Lúc ấy các xứ khác sẽ ùn ùn nối chân bắt chước theo Do Thái và các xứ vua dầu lữa Á Rập sẽ teo ruột hết làm trời!

Ông Shai Agassi nói với một phóng viên truyền hình rằng chỉ cần tiền xăng tiêu thụ trong xứ Mỹ 7 ngày, tức là khoảng 7 tỷ dollars, ông có thể thiết lập các trạm tráo đổi bình điện trên toàn nước Mỹ. Trời! Nước Mỹ tiêu thụ xăng 1 tỷ dollars mỗi ngày? Khi toàn nước Mỹ xài Auto điện, ngân sách quốc gia nước Mỹ sẽ thặng dư cỡ nào? 

Hảng phim chụp hình Kodak một thời làm bá chủ thị trường. Khi digital camera ra đời, hảng phim Kodak không thức thời chuyển hướng để rồi hảng phim Kodak tuyên bố vỡ nợ! 

Các hảng chế xe hơi nên lấy Kodak làm gương. Nếu xe Auto điện được thực hiện hoàn hảo như ý nghĩ của ông Shai Agassi thì lúc ấy ai còn muốn xài xe hơi? Nhất là giá xăng cao vọt như lúc nấy! Hơn nữa xe xăng tai nạn dễ bị cháy hay nỗ! tth

Click Vào Đây - Để xem ông Shai Agassi nói chuyện và chiếc xe Auto điện đầu tiên.



Friday, May 18, 2012

Loại thuốc đáng sợ nhất thế giới


Năm 2011 lúc tôi ở Sàigòn, có nghe chuyện dân lành bị kẻ gian dùng thuốc mê để sai đâu làm đó, khi tỉnh lại thì tài sản sạch bách không còn gì hết. Câu chuyện nghe qua khó tin và có vẽ hoang đường! Nhưng hôm nay tôi được email của bồ tèo KQ Lê Phước Khương gởi từ Sàigòn có kèm theo tài liệu về loại thuốc Scopolamine và tôi vô internet tìm hiểu thêm về loại thuốc Scopolamine hay còn gọi là ‘Hơi thở của quỷ” là có thật.

Cây Borrachero

Loại thuốc Scopolamine được chế biến từ hạt trong trái của cây Borrachero ở xứ Colombia. Cây nầy có bông màu trắng và vàng rất đẹp. Cái độc hại của thuốc Scopolamine là không mùi vị không màu nên rất khó nhận diện. Thuốc Scopolamine được làm thành bột màu trắng, được dùng để thổi vào mặt nạn nhân hoặc pha vào nước cho nạn nhân uống. tth

Sau đây là tài liệu về thuốc Scopolamine:
     
Loại thuốc đáng sợ nhất thế giới

Một cuốn phim tài liệu mới đây đưa ra tiết lộ về loại thuốc đáng sợ nhất thế giới, đó là loại thuốc mà bọn tội phạm thường dùng để xóa trí nhớ và làm mất ý thức tạm thời của nạn nhân.

Click Vào Đây - Để xem phim tài liệu ở Colombia. 

Trong tự nhiên, loại cây nầy tự sản sinh và phát tán chất Scopolamine. Các bà mẹ ở Colombia thường dặn con phải cẩn thận với những bông hoa màu vàng và trắng rất đẹp của loại cây này bởi phấn hoa có khả năng gây ra “những giấc mơ kỳ lạ”. Chiết xuất từ hạt Borrachero không màu, không mùi và không vị, tạo ra “những giấc mơ kỳ lạ”. Đặc tính dễ tan trong nước, những tên tội phạm dùng chất này cho vào thức ăn, nước uống của nạn nhân.

Hãng tin Reuters cho biết, nạn nhân rơi vào trạng thái vô thức và trở nên ngoan ngoãn nghe lời, về nhà lấy hết của cải hay đến ngân hàng rút sạch tiền để đưa cho những tên tội phạm. Đặc biệt, những người phụ nữ bị bỏ thuốc “hơi thở của quỷ” trong nhiều ngày, bị hãm hiếp và bán vào nhà chứa.

Anh Ryan Duffy, phóng viên của hãng tin VICE đã đến Bogota, Colombia làm một phóng sự mang tên “Loại thuốc đáng sợ nhất thế giới”. Đoạn phóng sự dài 35 phút của anh được đăng trải trên Youtube vào hôm 11-5 đã thu hút sự quan tâm lớn của cộng đồng mạng.

Click Vào Đây - Để xem phim tài liệu của Ryan Duffy.

Tiến sỹ Stephen M.Pittel, nhà tâm lý học pháp y và cũng là người tiên phong nghiên cứu về văn hóa thuốc ở San Francisco có viết: “các báo cáo hàng ngày cho thấy nhiều vụ cưỡng hiếp, trộm cắp, bắt cóc… ở Mỹ và Canada có liên quan đến thuốc Burundanga, một dạng khác của Scopalamine vốn được sử dụng trong nhiều thập kỉ qua ở Columbia trong các nghi lễ bản địa”.

Tiến sỹ cho biết thêm: “Thông thường, những tên tội phạm bí mật bỏ thuốc vào nước hoặc vẩy bột thuốc vào mặt của nạn nhân. Nạn nhân đưa toàn bộ trang sức, tiền, chìa khóa xe, thậm chí còn rút cả tiền ngân hàng để đưa cho chúng. Khi tỉnh lại họ mới nhận ra đã mất đồ và hoàn toàn không nhớ kẻ đó là ai”.

Đó là lý do tại sao những năm gần đây, Bộ Ngoại giao Mỹ đưa ra cảnh báo đối với du khách, cẩn thận với “những tên tội phạm ở Colombia sử dụng thuốc vô hiệu hóa tạm thời khách du lịch”.

Chỉ một lượng nhỏ thuốc là có thể “sai khiến” được nạn nhân trong khi lượng lớn hơn có thể gây bất tỉnh ngay lập tức và gây mất trí nhớ.

Bộ Ngoại giao và Thương mại Quốc tế Canada cũng đưa ra lời khuyên cho du khách đến các vùng nông thôn Colombia. Theo đó, du khách phải cẩn thận, tránh đến các quán bar một mình, cẩn thận với nước uống và đồ ăn nơi đây.

Ngay cả trên website của Bộ Ngoại giao Colombia cũng có lời cảnh báo khách du lịch đến Colombia “cẩn thận với chất Scopolamine, thường được gọi là Burundanga khi chúng được hòa với sữa, nước, thuốc lá hay qua đường hô hấp”. Thuốc thường được những tên trộm và bắt cóc dùng trong các quán rượu địa phương. Colombia cũng nổi tiếng là đất nước có tỉ lệ bắt cóc cao nhất thế giới.

Thursday, May 17, 2012

Mùa Xuân Đầu Tiên - Như Quỳnh & Thế Sơn


Click Vào Đây - Nhạc phẩm Mùa Xuân Đầu Tiên/Ca sĩ Như Quỳnh & Thế Sơn

Gia đình Chị Bảy họp mặt đầy đủ sau gần hai năm.


Từ ngày November 6, 2010 là ngày giổ đầu cũng là ngày xả tang Bà Xả tôi, đến nay gần hai năm gia đình tôi mới có dịp họp mặt đầy đủ. Sau khi mẹ mất Thông bỏ nghề chụp hình và trở lại nghề Kỹ Sư làm Consulting cho hảng Celerant, cứ vài tuần hảng lại gởi nó đi khắp nơi trong và ngoài nước Mỹ. May mắn hiện nó làm việc ở các giàn khoan dầu ngoài biển gần Los Angeles. Chủ Nhật May 13, 2012 là ngày Mother's Day. Tối Thứ Bảy Thông lái xe từ LA về San Diego để gặp tôi và Chị Thy. Sáng Chủ Nhật Thông đưa gia đình đi ăn trưa để mừng Mother's Day cho Chị. Ăn trưa xong Thông phải trở lại LA để sáng Thứ Hai làm việc. Sự họp mặt gia đình đầy đủ nầy là sự an ủi hết sức cần thiết cho tôi lúc nầy! Tuổi về chiều mà nhìn thấy các con thương yêu nhau thì còn niềm vui nào hơn! Chắc là Bà Xả muốn tạo cho tôi vui. Cám ơn em! tth

Gia đình ăn Điểm Sấm.

Click Vào Đây - Để xem thêm hình



Wednesday, May 16, 2012

LK Hoa Nào Anh Yêu & Tấm Lụa Đào - Hạ Vy


Click Vào Đây - Nhạc phẩm LK Hoa Nào Anh Yêu & Tấm Lụa Đào/Ca sĩ Hạ Vy

Monday, May 14, 2012

Cò Lã - Thu Huyền


Click Vào Đây - Nhạc phẩm Cò Lã/Ca sĩ Thu Huyền

Cò Nhang Võ Quang Thẫm - Chị Bảy



Kỳ nầy về Orange County tôi ở nhà bồ tèo KQ62C Võ Quang Thẫm luôn bốn đêm. Tôi biết Thẫm từ Năm 1963 lúc còn ở Quân Trường Không Quân Nha Trang.

Năm 1964 tôi và Thẫm ở cùng Phi Đoàn 114 Pleiku. Năm 1965 hai đứa đi Mỹ học lái máy bay khu trục cùng khoá. Năm 1966 hai đứa ở cùng Phi Đoàn khu trục 514 Biên Hoà.

Năm 1967 tôi bị phòng không địch bắn tắt máy ở Đức Huệ Đức Hoà gần biên giới Miên, tôi đáp bụng trong rừng thoát chết. Sau đó tôi rời Phi Đoàn 514 về Phi Đoàn 716 Tân Sơn Nhất bay Trắc Giác. Thẫm thì về Cần Thơ bay A37. Trên chiến trường Mộc Hoá, Thẫm bị hoả tiển phòng không SA7 chui vô máy nỗ tung cánh máy bay phản lực và lúc ấy máy bay đã vô Spin rơi xoắn ốc nhưng Trời Phật thương nên Thẩm còn giựt dù kịp thời và thoát chết.

Thẫm là tác giả của biệt danh Chị Bảy của tôi. Năm 1964, Pleiku mùa mưa thì mưa dầm dề cả tuần, đâu có bay bổng gì được. Những lúc ngồi không vô tích sự, anh em bày ra nhìn mặt đặt biệt danh. Thằng Cầu giống con Thằn Lằn, bị ngay cái tên Cầu Thằn Lằn. Thằng Tự có gương mặt hơi bậm trợn mà dễ thương, vậy mà bị ngay cái tên Tự Chuột Cống. Tôi thương cho thằng Tự quá sức, nhưng đã dính cái tên nào thì đừng vùng vẫy cố đổi tên vì càng vùng vẫy càng chết!! Thằng Thẫm có gương mặt giống con Cò, bị ngay cái tên Cò Nhang. Thằng Minh cao lớn nhưng đen thui, bị ngay cái tên Minh Mọi..............

Mười hai con giáp tôi không giống con nào hết! Mọi người cố nhìn tôi coi tôi giống con gì, nhưng thấy tôi bảnh trai quá! không giống con gì hết, thằng Thẫm tức lồng lộn. Tôi khoái chí đứng dậy đi quanh trong phòng cười ha hả. Bất chợt thằng Thẫm thấy tướng đi bơi bơi của tôi giống tướng đi Chị Bảy của nó, thế là tôi bị cái tên Chị Bảy. 

Trời! Cái gì Chị Bảy? Có vẻ bê đê quá, nếu cho tôi đổi với thằng Tự đế lấy cái tên Chuột Cống tôi đổi liền. Đêm hôm đó tôi trăn trở mãi vì cái tên Chị Bảy. Nhớ ngày nào các cô gái trong xóm ở Sàigòn gọi tôi là Alain Delon tên tài tử bảnh trai của Pháp. Các cô khen tôi có gương mặt và tướng đi giống y Alain Delon, vậy mà giờ đây mới vô lính tôi bị ngay cái tên không giống ai hết, tức không chịu được.

Rồi cái tên Chị Bảy vang dội cả vùng trời thuộc Quân Đoàn 2 Năm 1964. Mỗi sáng anh em cất cánh máy bay đi hành quân, trên trời họ gọi nhau bằng biệt danh. Nghe tiếng tôi trong vô tuyến, ôi thôi như đàn Ong Đực đánh hơi được Ong Cái, họ gọi Chi Bảy ơi ới cả một vùng trời! Ngay cả các ông Bộ Binh dưới đất cũng xía vô gọi Chị Bảy, hoá ra Chị Bảy lái máy bay nghe lạ tai và ăn khách ra phết. Xin Click Vào Đây để xem Ông Quận Trưởng dưới đất xía vô chuyện của anh em tôi để tán Chị Bảy!    

Tôi quen dần với cái tên kỳ lạ Chị Bảy. Sau lần Chị Bảy lã lơi với Ông Quận Trưởng Tuy Phong và bị Minh Mọi mắng là Chị Bảy "ngựa"  như trong link phía trên, tôi quen dần với cái tên Chị Bảy, mà giờ đây tôi cảm thấy vui vui không còn là vấn đề! tth   

Cò Mẹ Cò Cha, đang rình trước nhà hàng Thái Lan để vớt cá Bóng Kèo!
Nhìn kỹ Cò Cha, không giống Cò không lấy tiền.  
Click vào hình để xem hình lớn.

Tình cờ tôi ngũ trong ổ Cò đúng lúc sinh nhật Cò Mẹ Hương.
Tôi đặt một bánh sinh nhật nhõ vừa đủ cho cặp cò và Chị Bảy. Hai Cò Con thì lớn rồi, tự kiếm ăn lâu lâu cuối tuần mới về!
Happy Birthday Chị Hương.

Cò Mẹ đang cắt bánh sinh nhật.

Cò Mẹ Cò Cha đang vớt cá Bóng Kèo kho tộ với canh Khoai Mỡ.







Saturday, May 12, 2012

Lạ Giường - Như Quỳnh


Click Vào Đây - Nhạc phẩm Lạ Giường/Ca sĩ Như Quỳnh

Friday, May 11, 2012

Tiếng Sông Hương - Mai Thiên Vân


Click Vào Đây - Nhạc phẩm Tiếng Sông Hương/Ca sĩ Mai Thiên Vân

Wednesday, May 9, 2012

Phép Bỏ Dấu Hỏi-Ngã Trong Tiếng Việt


Thỉnh thoảng tôi nhận được email của những người bạn mới từ những vùng trời xa xôi như Việt Nam, Đức,... rồi Mỹ. Họ biết tôi nhờ qua Blog của tôi. Những người bạn mới nầy là món quà tinh thần vô giá an ủi tôi rất nhiều. Lúc tôi về Viêt Nam vừa rồi, có mấy cô email thăm hỏi tôi, có cô thì cho tôi gặp mặt uống cà phê trò chuyện, đa số thì ẩn mặt nhưng thường xuyên email hoặc điện thoại thăm hỏi. Cũng vui! 

Sáng nay tôi nhận được email của anh Hoàng Duy Liệu với lời lẽ làm tôi vui quá. Tôi xin phép anh Liệu để post vài đoạn email của anh ra đây để tôi khoe với các Thầy D. Tôi xin cảm ơn anh đã âm thầm theo tôi từ Sàigòn, Đàlạt, San Diego. Tôi cũng xin cám ơn anh đã gởi cho tôi cái link của Phép Bỏ Dấu Hỏi-Ngã. Tôi sẽ post lưu trử cái link nầy trong blog của tôi. Ai muốn đọc thì nhìn column bên trái của blog nầy, trong mục "Qui luật bỏ dấu hỏi ngã tiếng Việt". Tôi sẽ có email riêng cho anh. tth

Sau đây là vài đoạn email của anh Liệu:

"Kính thưa anh Thái,

Ngày xưa em không có đi lính cũng chẳng có quen anh nhưng bây giờ em im lặng đi theo anh từ Sài gòn Đà Lạt đến San Diego trong những tối buồn hiu một mình. Chuyện anh viết sống động và thân thương lắm.

Thấy anh hỏi chuyện bỏ dấu tiếng Việt, em có biết cái web này anh vô coi thữ rất là dễ xài cho ai không làm biếng. Phần em có mà không chịu xài.".........................
"Cám ơn anh rất nhiều qua những bước giang hồ truyện kể của đời anh. Cầu mong Phật Trời phù hộ cho anh lúc nào cũng được an nhàn thanh thản.
Hoàng Duy Liệu"


 

Tin Hội Ngộ 2013 - Chị Bảy


Quý Anh Chị KQ63D thân mến,

Tôi đang ỡ San Diego, tuần rồi tôi lên Orange County gặp KQ63D Nguyễn Đức Hiền và tôi cũng vừa gọi KQ63D Vũ Ngô Dũng ỡ San Jose để bàn "Hội Ngộ KQ63D 50 Năm Tuổi Lính 70 Năm Tuổi Đời".  

Hiền và Dũng cho tôi biết anh em KQ63A có ý định tổ chức Hội Ngộ chung. Vậy là KQ63A Nguyễn Văn Bút sẽ có một buổi họp tại Orange County để bàn về việc nầy vào Tháng July 2012, và họ sẽ gom tất cả các khoá của Năm 1963 gồm KQ63A, KQ63B, KQ63C, KQ63D, KQ63E, KQ63F, KQ63G để tổ chức chung cho Hội Ngộ 50 Năm Tuổi Lính.

Sau khi tôi nói chuyện với Hiền, Dũng về việc tổ chức Hội Ngộ chung nầy, chúng tôi đều hoan hỉ không thấy có gì trỡ ngại. Tuy nhiên đó chỉ là ý nghĩ của ba người, Quý Anh Chị nào có ý kiến thì vui lòng cho chúng tôi biết.

Riêng tôi thì Thầy D anh em mình, dạo nầy sức khoẻ và tài chánh "trồi sụt bất thường", nếu tổ chức riêng cho KQ63D cũng không đơn giản, vì kiếm cho đủ số người tham dự để lấy nguyên nhà hàng cho được riêng tư, sẽ là một vấn đề!

Thời gian còn rộng để Quý Anh Chị KQ63D góp ý. Xin Quý Anh Chị có ý gì cứ nói ra, hoặc qua KQ63D Group Mail, hoặc muốn post lên KQ63D Blog thì email cho tôi để tôi post. 

Xin cám ơn Quý Anh Chị KQ63D.

Huỳnh Thông Thái

  

Saturday, May 5, 2012

Đố Ai - Như Quỳnh


Click Vào Đây - Nhạc phẩm Đố Ai/Ca sĩ Như Quỳnh

Friday, May 4, 2012

Thu Trên Đảo Kinh Châu - Ánh Tuyết


Click Vào Đây - Nhạc phẩm Thu Trên Đảo Kinh Châu/Ca sĩ Ánh Tuyết

Wednesday, May 2, 2012

Qui luật bỏ dấu hỏi ngã tiếng Việt Nam


Bỏ dấu hỏi ngã tiếng Việt, tôi còn mù mờ chưa nắm vững. Bồ tèo KQ Lê Phước Khương của tôi ỡ Sàigòn forward email cho tôi có kèm theo qui luật bỏ dấu hỏi ngã tiếng Việt Nam. Tôi đã đọc vài tài liệu về qui luật bỏ dấu hỏi ngã, và tài liệu nầy tôi thấy khá rõ ràng, nên tôi post lưu trử trong blog nầy. Ai muốn đọc qui luật thì nhìn column bên trái của blog nầy sẽ thấy "Qui luật bỏ dấu hỏi ngã tiếng Việt Nam" rồi click vào đó. tth  

Ai có qui luật bỏ dấu hỏi ngã tiếng Việt nào rõ ràng hơn, xin email tthtx@yahoo.com cho tôi để tôi post lên đây lưu giử cùng xài chung. Xin cám ơn. tth